« Home « Kết quả tìm kiếm

Bình giảng 4 câu cuối bài thơ Tương tư


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Bình giảng 4 câu cuối bài thơ Tương tư Ngữ văn 11 Dàn ý chi tiết.
- Giới thiệu khái quát về bài thơ "Tương tư".
- của Nguyễn Bính..
- Bốn câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ và khát vọng lứa đôi thầm kín, e ấp của chàng trai.
- Bốn câu thơ cuối là sự nối tiếp mạch cảm xúc "tương tư".
- Nỗi nhớ e ấp, thầm kín nhưng khắc khoải khôn nguôi được thể hiện qua hai miền không gian "thôn Đoài thôn Đông"..
- Bốn câu thơ cuối thể hiện vẻ đẹp dân gian, dân giã trong hồn thơ Nguyễn Bính.
- Vận dụng thành công những thi liệu về địa danh, cỏ cây thấm đẫm hương vị của làng quê Việt Nam: "thôn Đoài thôn Đông giàn giầu hàng cau",....
- Đó là thơ Nguyễn Bính.
- cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ.
- Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát ở những bài thơ ấy, "ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta", ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là "hồn xưa của đất nước"..
- Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao.
- "Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
- Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông.
- Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ "Tương tư", rút trong tập thơ "Lỡ bước sang ngang".
- (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính.
- Bài thơ gồm 20 câu lục bát;.
- Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng..
- Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy.
- "nàng Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
- gần gũi, thân thiết yêu thương: "Nhà em có một giàn giầu ...".
- "Nhà em có một giàn cau.
- Nhà anh có một hàng cau liên phòng".
- có một".
- Trong bài "Tương tư", Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư "gỡ mãi chẳng ra".
- Và khép lai bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:.
- "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?".
- Cả một thời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông".
- Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?".
- Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính.
- Tác giả vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi.
- Một tình yêu đằm thắm, chân quê.
- "Tương tư".
- "Nắng mưa là bệnh của giời - Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".
- cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi hai mươi đã làm gần một nghìn bài thơ..
- Nguyễn Bính sử dụng nhiều thể thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát.
- Nhiều câu thơ đoạn thơ với các biện pháp tu từ trong bài Tương tư cứ thấm vào hồn ta mãi:.
- "Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng.".
- Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"..
- Bài thơ gồm có 20 câu lục bát.
- Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên,tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà anh, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy.
- gần gũi, thân thiết yêu thương: "Nhà em có một giàn giầu..".
- Trong bài "Tương tư", Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư "gỡ mãi chẳng ra":.
- Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:.
- "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?".
- "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông".
- Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?".
- Tác giả đã vận dụng sáng tạo các chất liệu văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài — thôn Đông, câu thơ lục bát giàu ỵần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khát khao tình yêu hạnh phúc của lứa đôi.
- "Tương tư".
- Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám.
- Giữa những giọng điệu mới lạ, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng gần gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết..
- Tương tư in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội.
- Tập thơ này đã mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bính.
- Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng khắc khoải chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền.
- Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc….
- Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư.
- Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư.
- Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi..
- “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” khác trong Thơ mới lúc bấy giờ.
- Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng..
- Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?.
- Cũng chẳng cẩn bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò… hay Tương tư thức mấy đêm rồi… mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:.
- Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông.
- Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Như vậy là tương tư chưa đi quá nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một bên, một chiều.
- Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?.
- Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, nghĩa là chẳng tiến lên được một bước nào..
- Cho nên đành chấm dứt nỗi sầu bằng một câu hỏi tu từ: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? “Cái tôi” hiện đại bộc lộ một cách tự nhiên dưới hình thức quen thuộc của ca dao xưa: thôn Đoài, thôn Đông… và nhờ đó mà nỗi đau dường như vợi bớt.
- Cho nên nỗi tương tư cũng mới chỉ đến mức chín nhớ mười mong hoặc thức mấy đêm rồi, kể cả sự vô vọng dường như kéo dài dằng dặc trong không gian và thời gian kia cũng chỉ là chuyện bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm mà thôi..
- Tương tư rút trong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới..
- “Tương tư’ có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung.
- Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều..
- Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái:.
- Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê..
- Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ.
- Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
- Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nữa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.
- Trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.
- Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau.
- Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười.
- cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài.
- thôn Đông”, “một người.
- Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình..
- Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, một người - một người, gió mưa - tương tư, tôi - nàng, bên ấy - bên này, hai thôn - một làng, bến - đò.
- khuê các - bướm giang hồ, nhà anh - nhà em, giàn giầu - hàng cau, cau thôn Đoài - giàu thôn Đông..
- Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao).
- Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sầu và hồn thơ Nguyễn Bính..
- Cùng với một số nhà thơ khác, Nguyễn Bính đã tạo nên trường phái thơ “chân quê” trong phong trào thơ Mới 1930-1945.
- Nguyễn Bính một lòng trở về với những con người đời thường chân chất, trải lòng cùng những mối duyên e ấp, vụng dại của một thời kì làng mạc yên bình.
- Thơ Nguyễn Bính đầy màu sắc ca dao dân ca và phong vị văn học dân gian, vừa quen vừa lạ.
- Bài thơ “Tương tư”.
- Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ đơn phương của một chàng trai với người nào đó.
- Chàng trai thôn Đoài đang nhớ nhung một cô gái thôn Đông, nhưng không dám thổ lộ rõ ràng, chỉ dám nói thôn Đoài nhớ thôn Đông.
- Nỗi nhớ tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại.
- Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi.
- Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định..
- Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát.
- Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn.
- Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc..
- Bài thơ “Tương tư” đạt được nhiều đặc sắc về nghệ thuật, nhất là cách tác giả sáng tạo thi liệu và lối diễn đạt quen thuộc.
- Nguyễn Bính đã thể hiện những tình cảm thật chân thành, mộc mạc, đáng yêu, đáng quý