« Home « Kết quả tìm kiếm

Bình giảng bài thơ Chiều xuân


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Bình giảng bài thơ Chiều xuân - Ngữ văn 11 Bài làm.
- Bài thơ "Chiều xuân".
- in trong tập "Bức tranh quê".
- của nữ sĩ Anh Thơ.
- "Chiều xuân".
- Bức tranh lụa "Chiều xuân".
- cảnh nào cũng bình dị, thân quen với mọi con người Việt Nam chúng ta.
- Sau gần bảy mươi năm, người đọc cảm thấy cô gái Kinh Bắc đang đứng bâng khuâng ngắm nhìn cảnh bến đò, dải đường đê và cảnh đồng lúa quê nhà một buổi chiều xuân mưa bụi..
- Cảnh bến đò với hình ảnh con đò biếng lười, quán tranh im lìm, chòm xoan.
- được Anh Thơ chấm phá một cách tinh tế.
- hình ảnh nào, hoạ tiết nào cũng có hồn, rất bình dị, thân thuộc, đáng yêu..
- Khổ thơ thứ hai nói về cảnh vật ngoài đường đê.
- "Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ".
- Cảnh vật không còn "êm êm im lìm vắng lặng".
- Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió, Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa"..
- Chữ dùng của Anh Thơ khá tinh luyện, giàu hình tượng và biểu cảm..
- Cảnh thứ hai của bức tranh "Chiều xuân".
- là một câu thơ gợi cảm có hình ảnh bình dị đáng yêu đã.
- hay có tình ý gì? Hình ảnh cô thôn nữ "yếm thắm".
- Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh khá thành công, làm nổi bật cảnh "Chiều xuân".
- Anh Thơ đã giúp những thế hệ độc giả hôm nay và sau này cảm nhận được cảnh vật và không khí thôn dã một thời quá vãng..
- Trong "Thi nhân Việt Nam".
- Đọc "Chiều xuân.
- "Chiều xuân ".
- cho thấy ngòi bút nghệ thuật của Anh Thơ tinh tế, đậm đà..
- Cảnh vật được chấm phá, phối sắc hài hoà, ý vị.
- Anh Thơ sử dụng từ láy tượng hình một cách đắc địa, làm nổi bật cái êm đềm, vắng lặng, xôn xao của cảnh vật trong một chiểu xuân mưa bụi: êm êm, im lìm„vắng lặng, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả..
- là môt bài thơ hay và đậm đà..
- độc giả mới biết chị Anh Thơ viết tập thơ đầu tay "Bức tranh quê ".
- "Bức tranh quê ", đúng như tên gọi, là những bức tranh bằng thơ vẽ lại cảnh thôn quê thời đó, mỗi bài thường là mười hai câu, có kết cấu khá giống nhau, nhưng các chi tiết đều sắc sảo, không trùng lặp.
- Tập thơ mở đầu bằng các bài về cảnh mùa xuân rồi lần lượt mùa hạ, mùa thu, cuối cùng là mùa đông với các bài thơ Tết.
- Bài "Chiều xuân ".
- Chọn chiều mưa bụi, Anh Thơ có dịp nói được cái đặc sắc của thời tiết xứ Bắc..
- Có những cảnh bình thường, quen thuộc, hàng ngày ai cũng thấy, qua mắt nhìn Anh Thơ bỗng nhiên mới mẻ đầy kì thú.
- Điều đáng quý ở Anh Thơ là chị tìm cảm hứng ngay từ những khung cảnh bình thưòng quanh chị.
- Đoạn cuối bài thơ "Chiều xuân".
- Bài thơ rất dễ bằng phẳng nếu ở đoạn cuối này không có nét gì đột biến.
- Cảnh sắc bớt vắng vẻ, bài thơ có được cái ấm áp của đời thường..
- Các bài thơ trong "Bức tranh quê ".
- Sau "Bức tranh quê", Anh Thơ định viết "Bức tranh thành thị", nhưng không thành công.
- Không chỉ quan sát bằng nhìn ngắm mà phải sống với hồn của cảnh vật thì thơ mới tả được cái thân của cảnh.
- Đọc "Bức tranh quê ".
- Anh Thơ không quen đặt những vấn đề lớn trong thơ, chị thích viết những điều trông thấy quanh mình.
- Anh Thơ quê ở Bắc Giang, từ nhỏ bà đã tìm đến văn thơ để giải thoát và tự khẳng định mình.
- Tháng 8 năm 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt tình phục vụ kháng chiến và xây dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca bà từng là ủy viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam, bà đã để lại.
- Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức tranh quê chiều xuân thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của mình..
- Quê hương đất nước là mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã có nhiều tác phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng.
- Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bản năm 1941..
- Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu là một bức tranh quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ.
- Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không phải bên sông có đông người lên xuống mà là một bến vắng, con đò cũng không phải là con đò nối nhịp cầu hai cảng mà là con đò biếng lười, hờ hững để mặt dòng sông trôi xuôi và quán tranh im lìm, vắng lặng trong một chiều mưa xuân .
- Nếu như không có sự chuyển động của nước sông trôi và “chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với bức tranh xuân tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm ả nhưng cũng thật buồn , chất chứa tâm trạng buồn não nề của chủ thể tôi đang cô đơn, khao khát đợi chờ, hỏi thăm.
- “Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ, Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió..
- Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được cảnh vật thân quen ở nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh động:“Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” cùng với đàn bò đang gặm cỏ để ăn và cao hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”, cảnh vật có động nhưng thật nhẹ nhàng vì đàn sáo đen sà xuống nhưng chỉ mổ một cách vu vơ, vài ba cánh bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú trâu bò kia lại cúi thong thả ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tĩnh nay càng thêm tĩnh, càng trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn.
- Tác giả lại đi vào chỉ tiết hơn ở cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3 của bài thơ:.
- Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng.
- có những chú cò con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân ấy lại có sự xuất hiện thêm bóng dáng của thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như cô gái đang chăm chỉ với công việc, nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất cánh của đàn chim con” thôi mà cô gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ, nàng yếu thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mơ mộng với nỗi buồn vu vơ, nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân..
- Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 3 khổ thơ, mỗi khổ là một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên và tĩnh lặng.
- Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh chiều mưa xuân đẹp đến như thế..
- Anh Thơ là một nhà thơ xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê gốc ở tỉnh Bắc Giang, tên tuổi của bà xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về cảnh sắc nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, thân thuộc, gợi được không khí và nhịp sống sôi động nơi đồng quê miền Bắc nước ta.
- Anh Thơ được được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.
- Các tác phẩm tiêu biểu của bà là: Bức tranh quê (thơ -1941), Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986)…Bài thơ Chiều xuân là bài thơ được rút từ “Bức tranh quê.
- là tập thơ đầu tay của Anh Thơ.
- Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ, bài thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình làm cho con người thêm gắn bó với quê hương..
- Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình..
- Những bức tranh nhỏ ghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi đồng quê miền Bắc nước ta..
- Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”, “quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:.
- Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ và có phần xơ xác.
- Bao trùm cả bức tranh là một vẻ tĩnh lặng gần như là hoàn toàn, nhưng vẫn có sự hoạt động của cảnh vật dù chỉ là sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò thì.
- Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín..
- Tiếp đến là khổ thơ thứ hai với bức tranh thứ hai, nếu như ở bức tranh thứ nhất là bức tranh về cảnh vật tĩnh lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:.
- “Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ, Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;.
- Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió, Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”..
- Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là mùa của hoa lá, cỏ cây bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà con đường ven đê cỏ non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự tươi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.
- Trên cái nền xanh tươi ấy là hình ảnh “đàn sáo đen”, là “mấy cánh bướm” và “những trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động hơn..
- Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ không nhỏ, nhẹ như bức tranh thứ nhất nữa, đàn sáo đen sà xuống mặt đất mổ nhưng chỉ là mổ vu vơ, trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà là đang “trôi’ theo làn gió, đặc biệt là hình ảnh trâu bò “cúi ăn mưa”, tại sao không phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”.
- Đây là một hình ảnh thật sự lãng mạn, mưa xuống những ngọn cỏ còn long lanh nước, ta có cảm giác như không phải là trâu bò gặm cỏ dưới làn mưa bụi mà là đang cúi xuống để gặm những hạt mưa.
- Bức tranh thứ hai là một bức tranh được nhìn bằng sự lãng mạn của nhà thơ, chính vì vậy nó vừa thực vừa ảo, vừa gợi cảm giác tươi mát vừa gợi sự thơ mộng..
- Bức tranh thứ ba được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng với sự xuất hiện của con người, đây chính là yếu tố quan trọng làm cho từ một bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt của con người:.
- Một bức tranh dù đẹp đến đâu nhưng nếu thiếu vắng đi bóng dáng con người thì bức tranh cũng thật đơn điệu và kém phần sinh động.
- Từ bức tranh thứ nhất đến bức tranh thứ ba đã có sự biến chuyển đi từ tĩnh lặng gần như là tuyệt đối đến đã bắt đầu có sự hoạt động của sự vật và ở bức tranh cuối cùng là hoạt động của con người.
- “chốc chốc vụt bay ra” thì đã xuất hiện hình ảnh của con người đó là “một cô nàng yếm thắm”, cả bức tranh là một sự hòa hợp của nhiều sắc màu, lúa xanh, cò trắng, yếm thắm làm cho bức tranh trở nên sinh động và rất tươi tắn..
- Ba bức tranh đã khắc họa nên những cảnh vật khác nhau với những dáng vẻ khác nhau nhưng đó đều là những hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với làng quê nông thôn, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của Anh Thơ.
- Bài thơ mang cho ta cảm nhận về bức tranh thiên nhiên của một buổi chiều xuân êm đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê hương đất nước sâu sắc trong trái tim mỗi con người chúng ta..
- Nữ sỹ Anh Thơ (2.
- nàng thơ của thi đàn Việt nam đã bộc lộ thiên phú bằng bài thơ nhớ mẹ.
- năm sau, ’’cô’’ Vương Kiều Ân cùng bút danh Anh Thơ trở thành ’’Người thư kí thời đại đã lưu giữ được hồn quê Việt Nam’’ trong thơ của mình.
- Buổi chiều thu gió yên mây tạnh Em vẩn vơ ngắm cảnh đồng không Chân Trời phớt nhuộm mầu hồng Lúa xanh lá biếc như lồng bóng mây Bức tranh chiều khen thay tạo hóa Lúa xanh xanh sáng tỏ đôi mầu Mảng vui cảnh đẹp quên sầu.
- 5 năm sau, người con gái đó đã lừng lững trên thi đàn Việt nam bằng tập thơ Bức Tranh Quê khiến thi đàn Việt Nam ngỡ ngàng, xửng sốt….
- Nhà phê bình cự phách Hoài thanh đã viết trong Thi Nhân Việt Nam về Anh Thơ như sau:’’Anh Thơ từ lâu chỉ chuyên lối tả cảnh mà lại tả những cảnh rất tầm thường.
- Một phiên chợ, một đứa bé quyét sân, một mụ đàn bà ngồi bắt chấy… có kẻ sẽ cho Anh Thơ là người vô tình.
- Nhưng có thiếu nữs nào 20 tuổi lại vô tình?…Hẳn người đã tập luyện nhiều lắm mới có thể đi đến cái thản nhiên, cái dửng dưng mà độc giả Bức Tranh Quê ắt phải lấy làm la…’’..
- Khi Thơ mới chiếm lĩnh vũ đài, Anh Thơ hăng hái, cổ vũ nhiệt thành.
- Tập thơ Bức Tranh Quê ra đời được tổ.
- Bức Tranh Quê chỉ có 48 bài, mổi bài – phần lớn 3 khổ – viết theo thể thơ thất ngôn và thơ tự do – tám chữ.
- Cả tập thơ là một bản trường ca về thôn quê Việt Nam trong 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Ðông..
- Mở đầu là bài Chiều Xuân – được Hoài Thanh tuyển vào Thi Nhân Việrt Nam năm 1941.
- Ngoài bờ đê cỏ non tràn cỏ biếc Ðàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ.
- Mãy cánh bướm rập rờn trôi trước gío Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa..
- Trông cứ như cánh bướm đang nắm trên mặt nước bị sóng xô khiên hình ảnh trở nên rập rờn.
- Với 3 khổ thơ, 12 giòng, 96 chữ, Nữ sỹ Anh Thơ đã miêu tả – vẽ Bức Tranh Quê Việt Nam như bức tranh Thủy mạc diệu kỳ