« Home « Kết quả tìm kiếm

Bình giảng bài thơ "Mộ" (Chiều tối) trích "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Bình giảng bài thơ "Mộ".
- Chiều tối là một trong những tác phẩm in đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh..
- Chiều tối (Mộ) là bài thơ số 31 trong tổng số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù, sáng tác vào buổi chiều cuối thu năm 1942 khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo..
- Hình ảnh cánh chim:.
- Cổ điển: Là thi liệu quen thuộc vẫn xuất hiện trong nhiều tác phẩm thi ca, cánh chim với ánh hoàng hôn kết hợp với nhau tạo ra bóng chiều..
- Hiện đại: Hình ảnh cánh chim không phải bất định mà có phương hướng rõ ràng "về rừng tìm chốn ngủ", được cảm nhận ở trạng thái vận động bên trong, cánh chim mỏi mệt..
- Sự tương đồng với cảnh ngộ của nhà thơ, cánh chim tuy mỏi mệt nhưng nó vẫn còn có tự do tung cánh, có tổ ấm tìm về, còn Bác bị gông cùm xiềng xích, cũng chẳng có nơi chốn chờ đợi, đầy xót xa..
- Hình ảnh chòm mây:.
- Cổ điển: Hình ảnh ước lệ tượng trưng thường xuất hiện trong thơ xưa, gợi nên sự tự do, thanh cao phiêu diêu không vướng bụi trần, gợi nên sự khắc khoải của con người trước cõi hư vô..
- Bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người:.
- Hình ảnh con người hiện lên là trung tâm của cả bài thơ, là tổng hòa của vẻ đẹp tuổi trẻ, căng tràn sức sống, vẻ đẹp của công việc lao động đời thường, bình dị, vẻ đẹp của quan điểm mỹ học tiến bộ và đặc sắc của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên..
- Sự kết hợp giữa nét vẽ cổ điển và hiện đại, bút pháp cổ điển lấy sáng tả tối thông qua hình ảnh "lò than đã rực hồng"..
- Tổng kết lại giá trị nội dung nghệ thuật của bài thơ..
- Bài thơ rõ ràng đã để lại trong ta, man mác không cùng, một rung động thật sâu sa, đẹp đẽ.
- Đọc bài Chiều tối (Mộ) chúng ta không những thấy được cảm nhận thời gian của Bác mà còn hiểu được dòng tâm trạng của thi nhân trong bước lưu chuyển của thời gian, trong nhịp sống cuộc đời..
- Có lẽ cảm hứng của bài thơ Chiều tối xuất phát từ một buổi chiều, trên con đường bị giải, chặng cuối cùng của một ngày bị đày ải, người đi vừa trải qua một chặng đường dài với bao vất vả gian lao.
- Hai câu thơ đã tái hiện thời gian và không gian của buổi chiều tối chốn núi rừng.
- Đây là cảm nhận thời gian tính truyền thống đã từng in đậm qua nhiều bài thơ.
- Chim bay về tổ có ý nghĩa báo hiệu thời gian của buổi chiều tối.
- Từ trong ca dao đã có hình ảnh:.
- Đến Truyện Kiều cánh chim mang theo cả thời gian và tâm trạng:.
- Rồi buổi chiều nghiêng xuống theo cánh chim nhỏ bé trong Tràng giang của Huy Cận:.
- Còn hai câu thơ của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa biểu hiện thời gian vừa có ý biểu hiện tâm trạng:.
- Qua hình ảnh chim mệt mỏi, người đi còn tìm thấy sự tương đồng hòa hợp với cảnh ngộ và tâm trạng của mình.
- Cánh chim mệt mỏi mải miết bay về rừng xanh tìm chốn ngủ, nhà thơ cũng mệt mỏi lê bước trên đường đi đày, giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ qua đêm.
- Nhưng trong nỗi buồn trước cảnh chiều muộn còn có một khát vọng tự do ẩn kín trong đôi mắt dõi theo cánh chim lẫn mây giữa bầu trời rộng..
- Hai câu thơ tiếp theo tái hiện quá trình vận động của thời gian và không gian:.
- Trong bài thơ Chiều tối, Bác không hề nói đến tối mà người đọc vẫn hiểu được.
- bóng tối đang buông xuống ở xóm núi là nhờ có chữ hồng ở cuối bài thơ.
- Cũng như nhiều bài thơ khác của Bác, hình tượng thơ trong bài Chiều tối vận động thật khỏe khoắn và bất ngờ.
- Sự xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên lò than rực hồng đã mang lại ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp.
- Mặc dù thời gian vận động từ chiều đến tối, từ ngày sang đêm nhưng hình tượng bài thơ vẫn vận động theo xu thế phát triển.
- Bài thơ Chiều tối không chỉ miêu tả cảnh nơi sơn cước với làn mây, cánh chim và cuộc sống lao động của con người.
- Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình, có tấm lòng yêu thương rộng lớn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tâm hồn lạc quan, mạch thơ có sự vận động đến sự sống, ánh sáng và tương lai.
- Tháng 10 năm 1942, trên đường bị giải đi từ nhà tù Thiên Bảo đến nhà ngục Long Tuyền trên đất Quảng Tây, Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết bài thơ "Chiều tối".
- Đây là bài thơ số 31 trong "Ngục trung nhật kí”, bài thất ngôn tứ tuyệt mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại:.
- Bài thơ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ và thể hiện cảm xúc, nỗi niềm của người chiến sĩ trên con đường đi đày..
- Bức tranh thiên nhiên xóm núi lúc chiều tối được miêu tả bằng hai nét rất gợi cảm.
- Một cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng tìm cây trú ẩn.
- Cánh chim nhỏ nhoi nhẹ hay, áng mây cô đơn nhẹ trôi.
- Bức tranh thiên nhiên chiều tối mang vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị:.
- Cánh chim và áng mây, chữ "quyện".
- Bức tranh thiên nhiên "Chiều tối".
- Hai câu thơ cuối bài "Chiều tối".
- Hình ảnh "lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng) gợi lên một mái ấm gia đình yên vui.
- Chữ "hồng”, "đặt cuối bài thơ, thi pháp cổ gọi là "thi nhãn", làm sáng bừng bức tranh xóm núi trong chiều tối.
- Bức tranh "Chiều tối".
- Bài thơ tứ tuyệt "Chiều tối".
- (Chiều tối – bản dịch) Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con Người: Bác Hồ kính yêu!.
- Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày.
- Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí – Đỗ, của Thôi Hiệu, e cũng khó phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi! Nhưng đọc thật kỹ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng – phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại..
- Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường.
- Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều.
- Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người!Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người.
- Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật.
- Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa:.
- Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực.
- Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối.
- Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối.
- (Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung) Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiện của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui.
- Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong).
- Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ.
- Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị.
- Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự..
- Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ.
- Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến.
- Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn.
- Trong số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù chúng ta đều nhận thấy hai yếu tố kết hợp hài hòa với nhau là chất thép và chất trữ tình ẩn hiện trong mỗi vần thơ, đại diện cho tâm hồn của người chiến sĩ và tâm hồn của người thi sĩ cùng hòa quyện, song hành với nhau.
- Điều này được thể hiện rõ và đặc sắc nhất trong bài thơ Chiều tối, mà ở đó ta thấy hiện lên một tâm hồn chiến sĩ hội tụ nhiều vẻ đẹp.
- Chiều tối (Mộ) là bài thơ số 31 trong tổng số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù, sáng tác vào buổi chiều cuối thu năm 1942 khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.
- Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, nội dung diễn tả nỗi niềm của thi sĩ trước hoàn cảnh khắc nghiệt tù đày, tiêu biểu cho lối thơ trữ tình của Hồ Chí Minh, sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, thông qua cảnh vật xung quanh để bộc lộ những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn..
- Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là cảnh chiều tối của một người tù bị áp giải đường dài, là khoảng thời gian mà những nỗi khổ đày ải.
- Thế nhưng đọc cả bài thơ, sâu sắc cảm nhận tuyệt nhiên chẳng thấy lấy một từ than thở, người ta chỉ thấy, một buổi chiều tối yên bình, tĩnh lặng, thấy cảnh con người lao động tràn đầy sức sống và một hồn thơ ung dung, tự tại lạc quan, yêu đời luôn hướng về sự sống..
- Có thể nói rằng thời điểm "chiều tối".
- đã trở thành một thi đề hết sức kinh điển và quen thuộc trong thơ ca xưa và nay, trong bài thơ đó là thời điểm xế chiều, khi bóng hoàng hôn đã vụt tắt, chỉ còn lại cảnh nhá nhem tối, yên tĩnh và lặng lẽ.
- Trong Chiều tối khung cảnh chiều tà đã được tác giả gợi ra bằng hai nét phác họa chính, thứ nhất đó là hình ảnh cánh chim trong câu thơ "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ", trong nét vẽ này có sự hòa trộn của hai gam màu cổ điển và hiện đại.
- Cổ điển ở chỗ cánh chim vốn là thi liệu quen thuộc vẫn xuất hiện trong nhiều tác phẩm thi ca, ý thơ của Bác phảng phất chút hương vị Đường thi, cánh chim với ánh hoàng hôn kết hợp với nhau tạo ra bóng chiều, thiếu đi cánh chim thì dường như bóng chiều không được rõ.
- Một số ví dụ về cánh chim và bóng chiều có thể kể đến trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/Dặm liễu sương sa khách bước dồn", hay trong thơ Nguyễn Du "Chim hôm thoi thóp về rừng/Đóa trà my đã ngậm gương nửa vành", hay trong thơ mới của Xuân Diệu có câu "Chim nghe trời rộng dang thêm cánh/Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần", hoặc trong thơ Huy Cận có câu rất hay "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa".
- Từ cánh chim gợi ra cảnh chiều tối, như đã đề cập đây cũng là một thi liệu vô cùng cổ điển, là khoảng thời gian dễ gợi ra những cảm xúc từ sâu tận trong tâm hồn, con người dường như ngừng lại hết những biến chuyển của ngoại cảnh để hướng về cái nội tại của tâm hồn, là buồn, là vui, là suy tư là tâm sự hầu như cứ gặp cảnh chiều tối thì lại càng dễ biểu đạt hơn cả.
- Nhưng điều đặc sắc trong thơ Bác là nét hiện đại xen lẫn cổ điển trong thơ, đó là một sáng tạo vô cùng mới mẻ, khác với thơ xưa hình ảnh cánh chim thường gợi sự xa xăm, chia lìa, phiêu bạt như thơ Lý Bạch có câu "Chúng điểu cao phi tận", hay Liễu Phi Nguyên có câu "Thiên sơn điểu cao phi tuyệt".
- Thì ở thơ của Bác hình ảnh cánh chim không phải bất định mà có phương hướng có điểm dừng rõ ràng "về rừng tìm chốn ngủ".
- Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình về thế giới thực tại.
- Thêm nữa, cánh chim trong thơ xưa thường chỉ được miêu tả ở trạng thái vận động bên ngoài thì trong thơ Bác cánh chim còn được cảm nhận ở trạng thái vận động bên trong, cánh chim mỏi mệt.
- Cánh chim còn gợi những liên tưởng tương phản với cảnh ngộ của Bác, cánh chim tuy mỏi mệt nhưng nó vẫn còn có tự do tung cánh, có tổ ấm tìm về, còn Bác bị gông cùm xiềng xích, cũng chẳng có nơi chốn chờ đợi, chờ đợ Bác chỉ là những nhà tù ẩm ướt, bẩn thỉu, gợi những cảm xúc xót xa cho cảnh ngộ của tác giả..
- Hình ảnh chòm mây xuất hiện thường là một chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời, gợi nên sự tự do, thanh cao phiêu diêu không vướng bụi trần, gợi nên sự khắc khoải của con người trước cõi hư vô.
- Nét hiện đại trong hình ảnh này thể hiện bằng sự cô đơn lẻ loi của chòm mây được nhấn mạnh ở việc chòm mây trôi lững lờ giữa tầng không, gợi sự liên tưởng tương đồng với cảnh ngộ của tác giả, vô định và mất phương hướng.
- Nếu hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên cảnh chiều tối thì hai câu cuối lại là bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người.
- Có thể thấy rằng ở bài thơ có sự chuyển đổi cảm xúc, hoạt cảnh rất rõ rệt, từ bức tranh thiên nhiên ước lệ, tượng trưng, sang bức tranh sinh hoạt có sự xuất hiện sự sống con người rất gần gũi và chân thực, từ không gian rừng núi hoang vu, lạnh lẽo sang không gian thôn xóm ấm áp, cuối cùng ấy là sự chuyển đổi thời gian từ chiều sang tối hẳn..
- Hình ảnh con người hiện lên là trung tâm của cả bài thơ và của cả bức tranh ấy là hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô, nếu nhận xét khách quan thì hình ảnh này vốn không có gì đặc sắc, mà vô cùng giản dị, đời thường.
- Hình ảnh sự sống hiện lên thông qua những nét vẽ sinh động phối hợp nhịp nhàng giữa chất liệu cổ điển và màu sắc hiện đại.
- của lò than rực sáng lên người ta mới thấy ấm áp hơn hẳn, cả bài thơ dường như được dội một tầng sinh khí, một luồng tình cảm mới đó là sự ấm áp của lò than và sự ấm áp của tình người..
- Mộ (Chiều tối) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong tập Nhật kí trong tù.
- Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo.
- Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối..
- Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn.
- Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn.
- Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:.
- Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều.
- Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối.
- Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ Chiều tối này