« Home « Kết quả tìm kiếm

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAY ĐỔI GIÁ CỦA CỔ PHIẾU: CÁC BẰNG CHỨNG TỪ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Tóm tắt Xem thử

- CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAY ĐỔI GIÁ CỦA CỔ PHIẾU:.
- Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá của các cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
- Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm chuỗi giá, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) của 20 cổ phiếu niêm yết trên HOSE, lãi suất cho vay, tỷ giá USD/VND, giá vàng và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) theo thời gian với tần suất quý (quarterly series) trong giai đoạn từ đến 31/12/2012.
- Kết quả phân tích hồi quy cho thấy EPS và tỷ giá USD/VND có tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi giá của các cổ phiếu.
- Ngược lại, biến động của giá vàng và tỷ lệ lạm phát có mối tương quan nghịch với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu..
- Trên thị trường, giá cổ phiếu là yếu tố được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi đưa ra quyết định đầu tư.
- Lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng giá của cổ phiếu phải phản ánh tất cả các thông tin sẵn có liên quan đến cổ phiếu đó (Fama, 1970).
- Nói một cách khác, nếu thị trường là hiệu quả thì giá của cổ phiếu sẽ bị tác động bởi nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố vi mô và vĩ mô.
- Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng thị trường chứng khoán ở nhiều quốc gia là không hiệu quả.
- sẽ không được phản ảnh đầy đủ vào trong giá cổ phiếu..
- Trong những năm gần đây, các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu về tài chính đặc biệt quan tâm do những ý nghĩa quan trọng của nó.
- Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ rằng các yếu tố cơ bản của công ty, chẳng hạn như tỷ lệ cổ tức, có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu (Al-Qenae và ctv., 2002;.
- Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác lại tìm thấy những bằng chứng về sự ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô (lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế) đến giá của cổ phiếu (Tsoukalas, 2003.
- Cho đến nay đã có một vài nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến giá của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, (Hussainey và Ngoc, 2009.
- Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc đo lường ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến giá của cổ phiếu mà chưa nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản của công ty.
- Hơn nữa, theo quan sát của tác giả giá vàng là nhân tố có thể ảnh hưởng đến giá của các cổ phiếu bởi vì ở Việt Nam thị trường vàng có mối quan hệ rất chặt chẽ với thị trường chứng khoán.
- Mục tiêu của nghiên cứu này là đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến giá của các cổ phiếu niêm yết trên HOSE, trong đó chú trọng đến những khoảng trống mà các nghiên cứu trước đây để lại.
- Mục 3 mô tả số liệu sử dụng và phương pháp nghiên cứu.
- Mục 4 tóm tắt các kết quả nghiên cứu.
- 2 LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu là chủ đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu trong những năm gần đây.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu được tìm thấy trong các nghiên cứu thực nghiệm đã công bố bao gồm các nhân tố vĩ mô và nhân tố cơ bản liên quan đến tình tình tài chính và hiệu quả hoạt động của các công ty.
- Trước tiên là nghiên cứu của Al-Qenae và ctv (2002).
- Trong nghiên cứu này, các tác giả đo lường ảnh hưởng của các nhân tố EPS, tổng sản phẩm quốc dân (GNP), lãi suất và lạm phát đến giá của các cổ phiếu niêm yết trên Thị trường chứng khoán Kuwait trong giai đoạn 1981-1997.
- cứu cho thấy giá cổ phiếu có tương quan thuận với biến EPS và GNP, nhưng lại có tương quan nghịch với các biến lãi suất và lạm phát..
- Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu giá của 17 cổ phiếu được thu thập trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2005.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) là nhân tố có tác động mạnh và cùng chiều đến giá của các cổ phiếu.
- Các nhân tố cung tiền và GDP cũng có tương quan thuận với giá của các cổ phiếu nhưng lại không có ý nghĩa về mặt thống kê.
- Ngoài ra, nghiên cứu này còn chỉ ra rằng chỉ số giá tiêu dùng và lãi suất có tương quan nghịch với giá của các cổ niêm yết trên thị trường chứng UAE.
- Tuy nhiên, chỉ có mối quan hệ giữa chỉ số giá tiêu dùng và giá của các cổ phiếu là có ý nghĩa thống kê.
- Như vậy, có hai nhân tố ảnh hưởng đến giá của các cổ phiếu được tìm thấy trong nghiên cứu này, đó là:.
- Sử dụng phương pháp GMM (Generalized Method of Moments) trên dữ liệu của 221 công ty trong giai đoạn các tác giả đã tìm thấy mối tương quan thuận giữa giá của cổ phiếu với các cấu trúc vốn, tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách, EPS và quy mô của công ty.
- Liên quan đến các yếu tố vĩ mô, kết quả nghiên cứu cho thấy giá cổ phiếu có tương quan thuận với tốc độ tăng trưởng GDP, cung tiền và độ sâu tài chính.
- Ngược lại, giá cổ phiếu lại có tương quan nghịch với lãi suất và tỷ lệ lạm phát..
- Trong một nghiên cứu khác, Uddin và ctv (2013) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá của các cổ phiếu thuộc ngành tài chính ở Bangladesh.
- Kết quả phân tích hồi quy cho thấy EPS, giá trị tài sản ròng (NAV), lợi nhuận trước thuế, tỷ số P/E (giá thị trường trên lợi nhuận) có tương quan thuận với giá của các cổ phiếu thuộc ngành tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Dhaka..
- Tsoukalas (2003) xem xét mối quan hệ giữa giá của cổ phiếu ở thị trường chứng khoán chứng khoán Cyprus và các yếu tố kinh tế vĩ mô.
- sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm chuỗi giá của các cổ phiếu, giá trị sản xuất công nghiệp, CPI, cung tiền và tỷ giá hối đoái theo thời gian với tuần suất quý được thu thập cho khoảng thời gian từ 1975 đến 1998.
- Sử dụng kiểm định Ganger, kết quả nghiên cứu cho thấy giá của cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán chứng khoán Cyprus có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế vĩ mô được chọn để nghiên cứu..
- Liu và Shrestha (2008) kiểm định mối quan hệ giữa giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Trung Quốc với các yếu tố vĩ mô, bao gồm giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ giá, lạm phát, cung tiền và lãi suất.
- Sử dụng kiểm định đồng kết hợp (cointegration test), các tác giả đã tìm thấy mối tương quan thuận giữa giá cổ phiếu với giá trị sản xuất công nghiệp và cung tiền và mối tương quan nghịch giữa giá cổ phiếu với tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá.
- Eita (2012) nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến giá của các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Namibia.
- Thống nhất với kết quả của các nghiên cứu trước đó, nghiên cứu này chỉ ra rằng giá của các cổ phiếu có mối tương quan nghịch với lãi suất và lạm phát.
- Ngược lại, các nhân tố GDP, tỷ giá và cung tiền có mối tương quan thuận với giá của các cổ phiếu..
- Aurangzeb (2012) xác định các nhân tố ảnh hưởng đến giá của các cổ phiếu trên ba thị trường chứng khoán ở khu vực Nam Á, đó là Pakistan, Ấn độ và Sri Lanka.
- Số liệu sử dụng cho nghiên cứu này được thu thập cho giai đoạn từ 1997 đến 2010..
- Kết quả phân tích hồi quy cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tỷ giá hối đoái có tương quan thuận, trong khi đó lãi suất lại có tương quan nghịch với giá của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán ở khu vực Nam Á.
- Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy lạm phát có tương quan nghịch với giá của các cổ phiếu nhưng lại không có ý nghĩa về mặt thống kê..
- Hussainey và Ngoc (2009) nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô của Việt Nam (giá trị.
- sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất) và của Mỹ (chỉ số S&P 500, giá trị sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất trái phiếu chính phủ) đến giá của các cổ phiếu ở Việt Nam..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị sản xuất công nghiệp cả của Việt Nam và Mỹ đều có mối tương quan tỷ lệ thuận với giá của các cổ phiếu ở Việt Nam.
- Ngoài ra, nghiên cứu này còn tìm thấy mối quan nghịch giữa lãi suất và giá của cổ phiếu nhưng lại không có ý nghĩa về mặt thống kê..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố cung tiền, sản lượng công nghiệp và giá dầu thế giới có mối tương quan cùng chiều với chỉ số giá thị trường.
- Tóm lại, các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng EPS là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến giá của các cổ phiếu.
- Ngoài ra, các nhân tố kinh tế vĩ mô như lãi suất, lạm phát, tỷ giá, cung tiền, GDP, giá trị sản xuất công nghiệp cũng là những nhân tố có những tác động nhất định đến giá của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- 3 SỐ LIỆU SỬ DỤNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm chuỗi giá, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) của 20 cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), lãi suất cho vay, tỷ giá USD/VND, giá vàng và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) theo thời gian với tần suất quý (quarterly series).
- Các cổ phiếu được chọn để nghiên cứu là các cổ phiếu có quy mô lớn.
- Sở dĩ các cổ phiếu có quy mô lớn được chọn để đưa vào danh mục nghiên.
- Số liệu về giá của các cổ phiếu này được thu thập từ website của Sở Giao.
- Danh sách các cổ phiếu được chọn để nghiên cứu được trình bày chi tiết ở Bảng 1..
- Bảng 1: Danh sách các cổ phiếu được chọn để thực hiện nghiên cứu.
- trình bày ở phần tiếp theo), chúng tôi đã xây dựng chỉ số giá của danh mục trên cơ sở giá của 20 cổ phiếu được thu thập.
- Nếu ngày 24 của tháng cuối quý rơi vào ngày thị trường chứng khoán không giao dịch thì giá của các cổ phiếu sẽ được thu thập vào ngày hoặc các ngày tiếp theo..
- Sau đó, EPS của danh mục gồm 20 cổ phiếu ở mỗi quý được xác định theo phương pháp của Somoye và ctv (2009) như sau:.
- EPS i : lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của cổ phiếu i W i : Tỷ trọng của cổ phiếu i trong danh mục (được xác định bằng vốn hóa của cổ phiếu i chia cho tổng vốn hóa của danh mục)..
- 3.2 Phương pháp nghiên cứu.
- Để đo lường mức độ ảnh hưởng của một số nhân tố đến sự thay đổi giá của các cổ phiếu niêm yết trên HOSE, nghiên cứu này sử dụng mô hình do Al- Tamimi và ctv (2007) đề xuất.
- Một cách cụ thể, mô hình nghiên cứu có dạng như sau:.
- Y t (biến phụ thuộc) là sự thay đổi giá (tỷ suất sinh lời) của các cổ phiếu trong danh mục và được tính như sau:.
- do Tổng Cục thống kê công bố 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
- Bảng 3: Đặc điểm mẫu nghiên cứu.
- 4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá của cổ phiếu niêm yết trên HOSE: Kết quả phân tích hồi quy.
- Điều này có nghĩa là sự thay đổi giá của các cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi các nhân tố: EPS (X1), tỷ giá USD/VND (X2), giá vàng (X4) và tỷ lệ lạm phát (X5).
- Thống nhất với kết quả của các nghiên cứu trước đây (Al- Qenae và ctv., 2002.
- Uddin và ctv., 2013), kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy của nghiên cứu này cho thấy EPS của các cổ phiếu có tương quan thuận với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu.
- Đây là lý do giải thích cho mối tương quan thuận giữa EPS và tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu..
- Tương tự như biến EPS, kết quả phân tích hồi quy chỉ ra rằng tỷ giá USD/VND có tương quan tỷ lệ thuận với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu ở mức ý nghĩa thống kê 5%.
- Kết quả này phù với các nghiên cứu của Eita (2012), Aurangzeb (2012), Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2013).
- Cụ thể là, khi tỷ giá USD/VND tăng lên 1% thì tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu tăng 3,66%.
- Điều này đồng nghĩa với cầu về cổ phiếu trên thị trường tăng nên giá cổ phiếu sẽ tăng..
- Vì vậy, sự thay đổi giá vàng trong nước được kỳ vọng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến giá của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường.
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự biến động của giá vàng có tương quan nghịch với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu..
- Một cách định lượng, khi giá vàng tăng hoặc giảm 1% thì tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu sẽ giảm hoặc tăng 0,72%.
- Về mặt thống kê, mối tương quan nghịch giữa biến động giá vàng và tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu có ý nghĩa ở mức 5%.
- Khi đó, dòng tiền có sự dịch chuyển từ thị trường chứng khoán sang vàng nên làm cho giá cổ phiếu trên thị trường giảm và ngược lại..
- Trong nghiên cứu này tỷ lệ lạm phát được đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) do Tổng Cục thống kê công bố.
- Thống nhất với kết quả của các nghiên cứu trước đây (Al-Qenae và ctv., 2002.
- Mehr-un-Nisa và Nishat, 2012) kết quả phân tích hồi quy có được từ nghiên cứu này cho thấy tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu có mối tương quan nghịch với tỷ lệ lạm phát.
- Cụ thể là, khi tỷ lệ lạm phát tăng 1% thì tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu sẽ giảm 0,007% và ngược lại.
- Đối với các nhà đầu tư, lạm phát là một chỉ tiêu quan trọng thể hiện “sức khỏe” của nền kinh tế và vì vậy nó có tác động trực tiếp đến giá của các cổ phiếu trên thị trường.
- Hệ quả là giá cổ phiếu sẽ giảm khi lạm phát tăng..
- Một điều bất ngờ là kết quả phân tích hồi quy cho thấy mối quan hệ giữa biến lãi suất và tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu không có ý nghĩa thống kê.
- Như vậy, không có cơ sở để kết luận rằng lãi suất có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu.
- Nghiên cứu này đã cung cấp những bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu niêm yết trên HOSE.
- Kết quả phân tích hồi quy cho thấy EPS và tỷ giá USD/VND có tương quan tỷ lệ thuận với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu.
- Ngược lại, biến động của giá vàng và tỷ lệ lạm phát có mối tương quan nghịch với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu niêm yết trên HOSE.
- Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây ở thị trường chứng khoán mới nổi.
- Do hạn chế về số liệu nghiên cứu nên trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ mới đưa được 5 nhân tố vào mô hình hồi quy để ước lượng ảnh hưởng của chúng đến tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu (các biến độc lập trong mô hình chỉ mới giải thích được 43,49% sự biến động của tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu).
- Trong thực tế, tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu có thể còn bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác