« Home « Kết quả tìm kiếm

Cảm nghĩ của em về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan Bài tham khảo 1.
- “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan.
- Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang - một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình.
- “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi..
- Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.
- Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa..
- Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ.
- Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”.
- Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.
- Cảm nghĩ về bài thơ “Qua đèo Ngang”.
- Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:.
- Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này.
- Cảnh vật thì “lác đác”.
- Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang.
- Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả.
- Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt.
- Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:.
- Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời.
- Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”.
- “Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc.
- Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân.
- Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà Huyện Thanh Quan.
- Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình.
- Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét..
- Mở đầu bài thơ là hai câu đề.
- “Bước tới đèo ngang bóng xế tà”.
- Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối.
- Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây.
- Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống..
- Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương.
- Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật..
- Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết.
- Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng.
- Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn.
- Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao.
- Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng.
- Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá.
- Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm.
- Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn.
- Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà.
- Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi.
- Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình..
- Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả.
- Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết.
- Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình “một mảnh tình riêng ta với ta”.
- Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang..
- Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ.
- Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang..
- Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ..
- Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao.
- Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa….
- Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói:.
- Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trải.
- Nhà thơ quan sát tổng thể cảnh nơi đây.
- Con người xuất hiện.
- Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải..
- Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang.
- Mà nói cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ.
- Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa.
- Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một chế độ đã thối nát.
- Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà.
- Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng..
- Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng.
- Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng thoáng, bao la.
- Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng”.
- Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ.
- “Qua Đèo Ngang” là một bài thơ trữ tình đặc sắc.
- Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm.
- Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ, ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan..
- Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ.
- Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la.
- Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ..
- Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ tài năng.
- “Qua đèo Ngang” là một trong những bài thơ như thế..
- Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào.
- Vì thế bài thơ tả cảnh Đèo Ngang vào thời điểm ấy đồng thời nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ..
- Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm “bóng xế tà”:.
- “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà”.
- Câu thơ thứ hai tả cảnh sắc ở đèo Ngang với cỏ cây, lá, hoa… đá:.
- “hoa” làm cho câu thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước.
- Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng..
- Điểm nhìn của tác giả đã thay đổi: Đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa.
- Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ.
- Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn..
- Có thể nói “Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút.
- Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua từng dòng thơ.
- Vì thế bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi..
- Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên đèo Ngang trước con mắt người lữ khách khi vừa đặt chân tới..
- Bước tới đèo Ngang bóng xế tà..
- Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người.
- Bà Huyện Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim quốc, tiếng chim gia gia vọng đến, rơi vào cái vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên đèo.
- Là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có những điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội.
- Và thiên nhiên đã đánh thức lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình..
- Qua đèo Ngang trước tiên là bài thơ tả cảnh.
- Và khi đi lên đến đỉnh núi thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: Trời, non nước.
- Cái mênh mông vô cùng hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: Dừng chân đứng lại..
- Nhưng tả cảnh chỉ là một phần ý nghĩa của bài thơ.
- Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua đèo Ngang này.
- Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần.
- Qua đèo Ngang là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian.
- Có lẽ cho đến khi nào con đường Nam Bắc còn đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người vẫn còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng cao trội lên trong bóng chiều trên đỉnh đèo.