« Home « Kết quả tìm kiếm

Cảm nhận bài thơ Lầu Hoàng Hạc


Tóm tắt Xem thử

- Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận bài thơ Lầu Hoàng Lạc Dàn ý chi tiết.
- Thôi Hiệu quê ở Biện Châu, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, ông đỗ tiến sĩ năm 723, sau đó làm quan đến chức Tư huân viên ngoại lang..
- Ông sáng tác rất nhiều thơ với những đề tài khác nhau, nổi tiếng nhất là bài Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc) được truyền tụng rộng rãi qua hàng ngàn năm..
- Tâm trạng u hoài trước thời thế của tác giả được thể hiện bằng một bài thơ Đường luật với nghệ thuật tài tình hiếm có..
- Hai câu đề:.
- Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,.
- Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ..
- (Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.).
- Nhắc lại huyền thoại về nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc từ xa xưa, thời tiễn còn ở lẫn với người..
- Trải qua bao tang thương dâu bể, giờ đây lầu Hoàng Hạc đứng chơ vơ, cô quạnh bên bãi vắng sông trôi khiến thi nhân chạnh lòng nhớ cổ thương kim..
- Hai câu thực:.
- Hạc vàng đi mất từ xưa,.
- (Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên xải không du du.).
- Hình ảnh hạc vàng gắn liền với khung cảnh thần tiên.
- Hạc vàng bay mất không bao giờ quay trở lại mang theo tất cả những gì là huyền ảo nhất, thơ mộng nhất của lầu Hoàng Hạc..
- Khung cảnh được miêu tả bằng cảm xúc ngậm ngùi, nuối tiếc của nhà thơ.
- Nhà thơ chìm đắm trong tâm trạng hoài cổ, giữa không gian tịch mịch cô liêu..
- Hai câu luận:.
- Hai câu kết:.
- Nhịp thơ ngắn 2-2-1-1 trong nguyên tác chữ Hán và nhịp 2-2-2 trong câu thơ dịch của Tản Đà tạo nên âm hưởng trầm buồn, đặc tả tâm trạng thương nhớ quê hương da diết của Thôi Hiệu..
- Hình ảnh Trên sông khói sóng là tác nhân gợi nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi trong lòng nhà thơ.
- Cái hay của hai câu kết tụ lại ở từ sầu là nhãn tự, thần tự của bài thơ..
- Viết về lầu Hoàng Hạc có tới hàng ngàn bài thơ khác nhau của hàng ngàn thi sĩ từ xưa tới nay nhưng bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu vẫn xuất sắc nhất..
- Lí Bạch đến thăm lầu Hoàng Hạc, cảm hứng nổi lên định làm thơ ngâm vịnh nhưng khi nhìn thấy bài thơ của Thôi Hiệu để trên vách lầu thì gác bút không dám viết nữa là cách khẳng định giá trị bất hủ của Hoàng Hạc lâu và vị trí đỉnh cao của tên tuổi Thôi Hiệu..
- "Trước mắt có cảnh nói không được, Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu".
- Đó là hai câu thơ của Lý Bạch nói vì sao mình không làm thơ để vịnh lầu Hoàng Hạc.
- Lý Bạch là một trong những nhà thơ cự phách đời Đường.
- Hai câu thơ trên cho thấy "thi tiên".
- Lý Bạch là một con người cực kì khiêm nhường, đồng thời khẳng định "Hoàng Hạc lâu ".
- của Thôi Hiệu là một áng thơ kiệt tác..
- Nhiều nhà thơ Việt Nam đã thử bút dịch bài thơ này, nhưng theo ý kiến của Xuân Diệu thì bản dịch của Tản Đà là xuất sắc hơn cả..
- Lầu Hoàng Hạc Hạc và ngai cưỡi đi dâu,.
- Hạc vàng đi mất từ xưa!.
- Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc..
- Tương truyền Phí Văn Vi, tu tiên đắc đạo, thường cưỡi hạc vàng đến đây chơi.
- Thôi Hiệu chỉ để lại gần 40 bài thơ, nhưng chỉ có.
- "Hoàng Hạc lâu".
- Hai câu đầu, thi hứng khơi nguồn từ chuyện "Hạc vàng ".
- về Hoàng Hạc dâng lên dạt dào, man mác:.
- "Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ"..
- Hạc vàng cùng tiên đã bay đi, chẳng bao giờ trở lại nữa "nhất khứ bất phục phản Như ngẩn ngơ! Như chìm đi trong mộng tưởng.
- du du), nhà thơ như sực tỉnh:.
- "Hạc vàng đi mất từ xưa!.
- "Hạc vàng".
- của bài thơ, ba từ "Hoàng hạc.
- Đặc biệt câu thơ thứ 4 "Hoànghạc nhất khứ hất phục phản".
- Âm hưởng câu thơ như bị "thắt ".
- Ngòi bút của Thôi Hiệu rất điêu luyện trong phối thanh hòa sắc để tạo nên những vần thơ đẹp "thi trung hữu họa, thi trung hữu cầm ".
- Rồi nhà thơ bâng khuâng đưa mắt ra bốn phía, ra chân trời xa.
- Hai câu luận được cấu trúc đăng đối hài hòa, cặp từ láy "lịch lịch - thê thê ".
- Ngòi bút của Thôi Hiệu đã làm sống dậy cỏ cây thiên nhiên bằng đường nét và gam màu tươi sáng nhiều ấn tượng:.
- Trải qua trên 1200 năm, không biết đích xác Thôi Hiệu đã đến chơi lầu Hoàng Hạc vào thời gian cụ thể nào, nhưng qua hình ảnh "tình xuyên lịch lịch.
- Câu thơ như một bức tranh thủy mặc, đường nét xa-gần, đậm-nhạt, màu sắc trong và dịu, tinh tế và biểu cảm.
- Câu thơ dịch của Tản Đà thật vô cùng linh diệu, nó làm tái hiện lại "điệu Đường hồn Đường".
- Lầu Hoàng Hạc mờ dần trong bóng hoàng hôn.
- "Nhật mộhương quan hà xứ thị? ".Câu hỏi tu từ khơi gợi bao nỗi niềm nao nao, bâng khuâng.
- Người đọc như hòa điệu, đồng cảm với nỗi u hoài, thương nhớ quê hương của nhà thơ:.
- Câu thơ tả ít mà gợi nhiều.
- Nó là món ăn tinh thần của các nhà nho, các nhà thơ Việt Nam.
- Phần lớn các bài thơ kiệt tác của văn học trung đại dân tộc ta đều được sáng tạo theo thi pháp Đường thi - dân tộc hóa, tạo nên bản sắc Việt Nam..
- Bài thơ "Hoàng Hạc lâu".
- của Thôi Hiệu xứng đáng là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học phương Đông.
- Thôi Hiệu sinh ra và lớn lên vào những nam sơ - thịnh Đường, tính tình phóng khoáng, thích đi ngao du sơn thuỷ.
- Một lần đến chơi thành Vũ Xương, tĩnh Hồ Bắc, Thôi Hiệu lên ngắm lầu Hoàng Hạc.
- Cảnh vật xung quanh vào tầm mắt, nhà thơ cảm thấy có một nỗi buồn thấm thía mơ hồ thấm vào cõi lòng.
- Ông xúc cảm viết bài Hoàng Hạc lâu, khiến mọi người cảm phục.
- Quan sở tại đã cho khác bài thơ lên vách lầu Hoàng Hạc.
- Sau này, tương truyền có lần thi tiên Lá Đạch đến lầu Hoàng Hạc, toan cầm bút đề thơ, nhưng không sao viết được vì đã có thơ Thôi Hiệu đầy rồi..
- Bài thơ này đã lưu luyến ở Việt Nam từ rất lâu và được một số người chuyển dịch sang tiếng Việt.
- Trong đó, có lẽ thành công hơn cả là bản dịch đầy tài hoa của nhà thơ Tản Đà:.
- Hạc vàng ai riêng lầu còn trơ, Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ,.
- Huy Cận đã chịu ảnh hưởng hai câu kết trong bài thơ này khi viết hai câu kết của bài Tràng Giang:.
- Thôi Hiệu và Huy Cận đều có chung một nỗi nhớ của người xa quê.
- Cố điều, Thôi Hiệu nhân nhìn thấy khói và sóng trên sông mà nảy sinh ra tâm trạng ấy, còn Huy Cận không khói hoàng hôn (tức là không có cái gì gợi nhớ), nhưng cũng nhớ nhà.
- Nhưng dẫu sao, thì hai câu thơ của nhà thơ Việt Nam nói trên vẫn đậm đặc chất Đường Thi, chất Thôi Hiệu trong cốt cách, trong tinh tuý..
- Hoàng Hạc lâu đúng là một kiệt tác.
- Bài thơ mạnh mẽ, sinh động, đặc biệt thành công về mặt âm điệu.
- Bốn câu đầu bài thơ tập trung khá nhiều đặc sắc về mặt âm điệu.
- Câu đầu tiên của bài thơ là một câu phá luật.
- Sự thay đổi trên làm cho câu thơ có một nhạc điệu man mác, đặc biệt thanh trắc của chữ thứ tám dường như kéo dài thêm mãi âm điệu của câu thơ, diễn tả rất đạt nỗi bàng hoàng đến ngẩn ngơ trước một thực tại: người tiên và hạc vàng đâu còn nữa.
- Câu thơ dịch của Tản Đà.
- Hạc vàng ai cưỡi đi đâu thật trần tình.
- Nó không hề đánh mất mà đã chuyển đến người đọc Việt Nam trọn vẹn cái hay của câu thơ Thôi Hiệu cả về tứ thơ lẫn âm điệu..
- Bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là bài thơ hay vì âm điệu uyển chuyển nhịp nhàng, lúc mau, lúc khoan, khi bổng khi trầm.
- Câu thơ thứ hai phát triển tiếp tục ý tứ của câu thứ nhất trong sự đối lập xưa và nay, còn và mất.
- Đây cũng là một sáng tạo của Thôi Hiệu vì thơ Đường không đặt ra yêu cầu đối giữa hai câu phá đề và thừa đề.
- Ở câu thơ này, Thôi Hiệu không chú ý tạo sự đối lời mà hướng tới sự đổi ý: người tiên, chim hạc không còn nhưng lầu Hoàng Hạc còn đó.
- Chữ trơ trong câu thơ, tác giả hạ thật đắt, vừa gợi thế đứng một mình cô độc trên lầu Hoàng Hạc nơi trần thế không cố gì vĩnh hằng vĩnh cửu này, vừa diễn tả cảm xúc ngậm ngùi luyến tiếc trước cảnh đó người đâu.
- Câu thơ thứ ba, thứ tư lại hướng về mối quan hệ giữa cái vô cùng là cái hữu hạn.
- Đám mây trắng kia là của hôm nay hay của nghìn đời xưa? Hac vàng bay đi rồi trở lại hay mãi mãi không trở về? Sự trăn trở đầy triết lý được diễn tả trong những câu thơ âm điệu khá độc đáo.
- Sáu trên bảy tiếng của câu thứ ba là thanh sắc làm cho câu thơ phá luật tạo âm điệu không êm dịu, nhẹ nhàng như diễn tả sự bừng tỉnh của nhà thơ sau một hồn đắm chìm trong cảm xúc bàng hoàng để nhận ra sự thực đau đớn: Hạc vàng một khi đã bay đi không bao giờ trở lại.
- Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phân).
- Trong bốn câu thơ đầu, thực tại và quá khứ, cảnh vật và cảm xúc, tả thực và suy tưởng xen kẽ nhau trong những vần thơ biến hoá về âm điệu, vừa quy phạm, vừa tài hoa.
- Điều kì lạ là điện văn của cả bốn câu đi thẳng một mạch từ chữ đầu cho đến hết câu 4 với hai tiếng Hoàng Hạc nhắc lại khiến người đọc hình dung ra được cái cảnh những đám mây trắng nhẹ nhàng lờ lững bay trên không trung đưa hồn người lữ khách bay theo (Trần Trung San)..
- Bốn câu thơ cuối đưa người đọc từ sự suy tư, đắm chìm trong những cảm xúc đầy triết lí trở lại với cuộc sống thực – để ngắm nhìn hàng cây, bãi cỏ, để cùng băn khoăn một nỗi băn khoăn trần thế – Nhật mộ hương quan là xứ thị – Chiều tối rồi, què hương ở nơi đâu? Bức tranh thiên nhiên trong hai câu 5 và 6 hiện lên với những chi tiết thực, hàng cây đất Hán Dương soi bóng rõ mồn một xuống lòng sông tạnh, bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi.
- Cảnh sắc tươi tắn, bình dị và giàu sức sống khiến cho bài thơ miêu tả một di tích, một cổ lâu mà vẫn gần gũi cuộc đời thực tại.Hai câu kết đưa người đọc trở lại với nỗi trăn trở và cảm xúc của một người khách xa nhà.
- Bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là bài thơ hay vì âm điệu uyển chuyển nhịp nhàng, lúc mau, lúc khoan, khi bổng khi trầm như ru hồn người ta theo với ấm ba của những vần trong bài thơ.
- Tài hoa sáng tạo âm điệu của tác giả dồn lại trong bốn câu thơ đầu với nhiều nét độc đáo.
- Bài Hoàng Hạc lâu còn đặt ra nhiều thi đề thường trở đi trở lại trong thơ ca cổ Trung Quốc:.
- Cảm xúc ở đây giàu chất nhân bản lành mạnh khiến bài thơ đọng lại mãi trong tâm hồn bao thế hệ bạn đọc.