« Home « Kết quả tìm kiếm

CHĂM SÓC, GIÁO DỤC LỨA TUỔI MẦM NON CHO CON EM NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG XÍ NGHIỆP: NGHIÊN CỨU SO SÁNH VIỆT NAM VỚI HÀN QUỐC


Tóm tắt Xem thử

- Hiện nay, đối tượng có nhu cầu cấp bách về cơ sở giáo dục mầm non là lao động nữ.
- của người lao động.
- Phát triển cơ sở giáo dục mầm non ở khu vực xí nghiệp 1.1.
- Tính đến năm học trên toàn miền Bắc, các cơ sở mẫu giáo thuộc diện xí nghiệp, cơ quan tăng lên nhiều so với năm 1960.
- nhiều nhà trẻ có cơ sở vật chất và trang thiết.
- Sự phát triển cơ sở GDMN ở cơ quan, xí nghiệp giai đoạn .
- Năm Cơ sở.
- Do đó, các chủ trương, chính sách về cơ sở GDMN trong nơi làm việc, được hình thành từ thập kỷ 80.
- Dựa trên hai Luật này, việc thành lập cơ sở giáo dục mầm non trong nơi làm việc đã phát triển ngày càng mạnh mẽ..
- (Từ “Cơ sở GDMN trong nơi làm việc” là “Nhà trẻ xí nghiệp” và “Trường mầm non trong doanh nghiệp” được dùng như nhau)..
- Cơ sở của sự ra đời của bộ luật này là vào những năm 80, tỷ lệ lao động nữ tăng mạnh do “Kế hoạch Phát triển kinh tế 5 năm lần thứ hai” và xu thế sống kiểu gia đình hạt nhân trở nên phổ biến.
- Theo đó, nảy sinh nhu cầu cần có các cơ sở.
- Ngay sau đó, Dự án Xây dựng và quản lý các cơ sở GDMN trong nơi làm việc mẫu được thực thi..
- Đến năm 1995, còn có thêm Luật Sửa đổi bổ sung về trợ cấp lương giáo viên cho các loại cơ sở GDMN.
- Tiếp theo, năm 1996, “Công đoàn phúc lợi lao động” đã tiến hành xây dựng các cơ sở GDMN để chăm sóc con cái của những người lao động đã tham gia bảo hiểm lao động..
- b) Luật Chăm sóc, Giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non (1991, sửa đổi toàn diện 2004) Trong pháp lệnh này có quy định chi tiết về cơ sở GDMN tại nơi làm việc..
- các hình thức cơ sở GDMN là công lập, dân lập, tư thục, tại nơi làm việc.
- Các chủ doanh nghiệp phải xây dựng các cơ sở GDMN riêng trong nơi làm việc hoặc cơ sở chung theo sự hợp tác của một số doanh nghiệp.
- Trong trường hợp chủ của cơ sở sản xuất gặp khó khăn trong việc xây dựng cơ sở GDMN tại nơi làm việc thì chủ doanh nghiệp phải trợ cấp trên 50% chi phí cần thiết..
- Mặc dù chủ trương, chính sách về GDMN đã được cụ thể hoá bằng luật, nhưng việc xây dựng cơ sở GDMN tại nơi làm việc đã không thành công như mong muốn.
- Năm 1994, để phát triển hình thức này, Bộ Lao động đã phối hợp với Bộ Kinh tế - Tài chính, Bộ Phúc lợi - Y tế và các bộ ngành liên quan để xây dựng và thực thi “Kế hoạch mở rộng các cơ sở GDMN giai đoạn .
- Theo đó, năm 1995, điều chỉnh tiêu chuẩn xây dựng cơ sở và có chế độ trợ cấp lương giáo viên;.
- từ năm 1997, cho vay vốn để xây dựng các cơ sở GDMN trong nơi làm việc.
- năm 2006, tiến hành mở rộng phạm vi khấu trừ thuế doanh nghiệp và thuế lợi tức đối với tổng doanh thu của các cơ sở..
- Theo chính sách hỗ trợ đó, việc xây dựng cơ sở không ngừng tăng lên: năm 1990 có 20, năm 1994 có 37, đến năm 1998 có 184 cơ sở..
- Từ sau ngày những doanh nghiệp có sử dụng 500 lao động nam nữ cũng có nghĩa vụ phải thành lập cơ sở giáo dục nên số lượng doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thành lập cơ sở giáo dục cũng tăng theo (năm 2005 có 289 doanh nghiệp thì năm 2006 đã tăng lên 791 doanh nghiệp).
- Do thuê mướn nhiều lao động nữ nên cần có nhiều cơ sở giáo dục, nhưng có rất nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ lại không được trợ cấp của chính phủ.
- chính phủ sẽ thực hiện chính sách trợ cấp cho các cơ sở giáo dục linh hoạt hơn để họ có thể nhận được trợ cấp không hoàn lại của chính phủ..
- Tính đến tháng 12/2007, đã có 320 doanh nghiệp thành lập cơ sở GDMN, 177 doanh nghiệp trợ cấp chi phí giáo dục cho công nhân và 40 doanh nghiệp cho uỷ thác cơ sở GDMN khác.
- Một điểm đặc biệt là có 67 doanh nghiệp không có nghĩa vụ mà đã thành lập cơ sở GDMN và 30 doanh nghiệp trợ cấp chi phí giáo dục.
- Những doanh nghiệp được hỗ trợ thành lập cơ sở giáo dục chiếm tới 67,8%.
- tổng số doanh nghiệp có nghĩa vụ phải xây dựng cơ sở GDMN..
- Do vậy, nhu cầu thành lập cơ sở GDMN trong các doanh nghiệp này là vô cùng lớn.
- Tình hình thành lập cơ sở GDMN trong doanh nghiệp.
- thành l ập cơ sở GDMN.
- Thành l ập cơ sở.
- Nguồn: Thống kê giáo dục của Bộ Gia đình và Phụ nữ (1/2008) Xây dựng các cơ sở GDMN có ý nghĩa quan trọng là thanh toán chi phí liên quan đến giáo dục và phải hiểu đó là sự “trợ cấp giáo dục của người chủ tuyển dụng” và “Chính phủ hỗ trợ mọi chi phí: lương giáo viên, kinh phí xây dựng cơ sở, thiết bị và kinh phí quản lý”.
- Vì thế, trong vấn đề này, địa điểm của cơ sở GDMN không ý nghĩa bằng việc thanh toán chi phí cho cơ sở GDMN.
- Để quản lý và mở rộng cơ sở GDMN tại nơi làm việc, Chính phủ đã hỗ trợ tài chính từ quỹ xúc tiến phúc lợi xã hội, quỹ bảo hiểm lao động và từ ngân sách chung của Bộ Lao động..
- Chính sách trợ cấp cho cơ sở GDMN tại nơi làm việc B ộ Lo ại hình H ạng mục Kim ng ạch Đối tượng N ội dung.
- B ộ Lao động.
- Xây d ựng cơ sở.
- Nguồn: Quy định về thành lập và quản lý cơ sở giáo dục trong doanh nghiệp (Quy định về thành lập số 524, sửa đổi ngày 1/3/2006.
- Hi ệu trưởng: Trợ cấp trường hợp cơ sở có trên 20 tr ẻ em (trong 1 tháng).
- Nhân viên n ấu ăn: Trợ cấp trương hợp cơ sở có trên 40 tr ẻ em (trong 1 tháng).
- Nguồn: Quy định về thành lập và quản lý cơ sở giáo dục trong doanh nghiệp (Quy định về thành lập số 524, sửa đổi ngày 1/3/2006).
- Ngoài hỗ trợ tài chính, để mở rộng cơ sở GDMN tại nơi làm việc, chính phủ còn hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp là hỗ trợ thuế bất động sản khi thành lập cơ sở giáo dục, khấu trừ thuế doanh nghiệp và thuế lợi tức, miễn thuế tiêu thụ đặc biệt, ấn định kinh phí cần thiết để chi phí quản lý cơ sở GDMN….
- Những doanh nghiệp thành lập cơ sở GDMN cho 50 trẻ, nếu vốn đầu tư ban đầu chỉ có 50.000 USD thì vẫn có thể thành lập cơ sở GDMN để chăm sóc con em người lao động trong doanh nghiệp đó..
- Vì vậy, chủ doanh nghiệp đó cần chi phí quản lý (chỉ 3.200 USD/1 tháng là đã có thể tự quản lý cơ sở giáo dục đó)..
- cơ sở 300.000 USD.
- Do việc thành lập các cơ sở GDMN vẫn không đáp ứng yêu cầu nên Bộ Lao động đã thành lập “Trung tâm Hỗ trợ các cơ sở GDMN trong nơi làm việc”.
- Sự ra đời của Trung tâm còn căn cứ vào “Quy định về thành lập và hoạt động của các cơ sở.
- GDMN tại nơi làm việc” của Bộ Lao động, “Trung tâm hỗ trợ các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ em tại nơi làm việc” thuộc công đoàn phúc lợi lao động đã được thành lập và đi vào hoạt động tháng 9/2003..
- Trung tâm này đã cung cấp những dịch vụ cần thiết và những thông tin liên quan đến việc quản lý cũng như giải đáp tất cả những thắc mắc về quy mô thành lập cơ sở giáo dục và sự hỗ trợ của chính phủ đối với các doanh nghiệp muốn thành lập cơ sở giáo dục tại nơi làm việc.
- Từ đó hoạt động của các cơ sở giáo dục trong doanh nghiệp đi vào thực chất và sống động hơn..
- Kết quả thực tế là năm 2004, Trung tâm đã tham vấn thông tin cho 509 doanh nghiệp, hỗ trợ thành lập 28 cơ sở.
- Tình hình cơ sở GDMN ở nơi làm việc hiện nay.
- Đối với tình hình ở Hàn Quốc, chúng tôi sử dụng tài liệu “Nghiên cứu chính sách phát triển cơ sở giáo dục cho con cái lao động nữ tại khu vực Seoul” của Bộ Lao động (10/2002) để có thể hiểu rõ hơn vấn đề này.
- Kết quả thu được từ việc điều tra, phân tích thực trạng cơ sở GDMN ở nơi làm việc như sau:.
- Bối cảnh thành lập cơ sở GDMN trong doanh nghiệp.
- Theo kết quả điều tra về lý do thành lập cơ sở GDMN tại nơi làm việc, có tới 57,1% chủ doanh nghiệp Hàn Quốc trả lời rằng: Lý do quan trọng nhất là “Cải thiện phúc lợi cho người lao động”.
- Qua điều tra, trong số 28 doanh nghiệp thì có 19 doanh nghiệp đã thành lập cơ sở GDMN tại nơi làm việc tự nguyện..
- Nhận thức về cơ sở GDMN trong nơi làm việc của lãnh đạo công ty a) Việt Nam.
- Các lãnh đạo công ty đều cho rằng cơ sở GDMN trong doanh nghiệp là “rất cần thiết cho cả công nhân và con cái của họ lẫn công ty”.
- Thậm chí, công ty A còn tổ chức đưa các cháu vào thăm quan công ty, tổ chức các hoạt động vui chơi ở ngay cơ sở để các cháu hình thành tư duy và có ấn tượng tốt về công ty ngay từ khi còn bé.
- Công ty C chưa có cơ sở GDMN nhưng rất muốn sớm thành lập cơ sở GDMN..
- Nhưng khi chuyển sang cổ phần, công ty phải chịu hết chi phí cho cơ sở GDMN, trừ việc chính phủ vẫn trợ cấp cho lương giáo viên mầm non làm việc từ trước.
- Đây là khó khăn lớn nhất của việc duy trì cơ sở GDMN trong doanh nghiệp..
- Mọi lãnh đạo doanh nghiệp đều biết rằng “Cơ sở GDMN trong nơi làm việc là tất yếu nhưng nếu không có chính sách thì chắc chắn mô hình này sẽ không tồn tại nữa”.
- Họ đều mong muốn có chính sách hỗ trợ cho mô hình cơ sở GDMN ở nơi làm việc này để nó hoạt động tốt và phát triển.
- Chẳng hạn, hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp, để đổi lại, doanh nghiệp sẽ có những đáp ứng tốt cho cơ sở GDMN..
- Kết quả này cho thấy đa số các chủ doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của cơ sở GDMN, nhưng hầu hết các doanh nghiệp lại thụ động trong việc thực hiện.
- Khó khăn trong quá trình xúc tiến thành lập cơ sở GDMN là “gánh nặng chi phí của công ty” chiếm tỷ lệ cao nhất, 57,1%.
- Đối với việc có nhận được tiền trợ cấp của chính phủ cho cơ sở GDMN hay không, có 82,1% chủ doanh nghiệp trả lời rằng được chính phủ trợ cấp, 17,9% chủ doanh nghiệp trả lời rằng không.
- Như vậy, đại đa số đã được trợ cấp tài chính cho các cơ sở GDMN.
- Mức độ hài lòng về gửi con ở cơ sở GDMN trong nơi làm việc của bố mẹ a) Việt Nam: Đánh giá về trường mầm non trong nơi làm việc, 86,8% số người trả lời (con đi trường mầm non của công ty) là họ hài lòng về sự phù hợp giữa giờ đưa đón con cái và giờ làm việc, yên tâm về con cái trong thời gian lao động..
- b) Hàn Quốc: Có 89,4% phụ huynh trả lời rằng họ hài lòng với các cơ sở GDMN.
- Những lý do chính của việc gửi con vào cơ sở GDMN của công ty là: thứ nhất, họ tin tưởng vào việc chăm sóc, giáo dục mầm non (42,9.
- Những lý do các bậc phụ huynh trả lời rằng không hài lòng (8,3%) là vì nội dung giáo dục chưa đạt, môi trường và cơ sở vật chất kém chất lượng,….
- Sự hài lòng đối với dịch vụ của các cơ sở GDMN trong nơi làm việc.
- Biểu đồ cho thấy, ở Việt Nam và Hàn Quốc, đại đa số phụ huynh đều hài lòng với dịch vụ của các cơ sở GDMN trong nơi làm việc..
- Trường hợp con cái đi cơ sở GDMN của công ty thì học phí một tháng là từ 150.000đ đến 200.000đ.
- Như vậy, nếu công ty không có cơ sở GDMN và một gia đình có 2 con gửi trường mầm non khác thì lương của một người (vợ hoặc chồng) phải tiêu hết cho học phí, phụ huynh sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Hàn Quốc: Trung tâm Hỗ trợ các cơ sở GDMN trong nơi làm việc ở Hàn Quốc (12/2006) cho biết về chi phí giáo dục trong nơi làm việc: có 48,9% số người chi cho giáo dục dưới 150 USD/tháng, 12,6% chi trên 200 USD/tháng..
- Nhận thức của phụ huynh về điều kiện hoạt động của cơ sở GDMN trong nơi làm việc.
- Nhận thức của công nhân về điều kiện hoạt động của cơ sở GDMN.
- v ề điều kiện hoạt động của cơ sở GDMN trong nơi làm việc Cách phù h ợp chịu trách nhiệm.
- Những ảnh hưởng đối với doanh nghiệp khi cơ sở GDMN hoạt động a) Việt Nam.
- Cũng theo vị lãnh đạo này, việc duy trì được cơ sở GDMN trong Công ty làm cho công nhân có thêm tình cảm gắn bó với Công ty, động viên tinh thần người lao động bằng cách mang lại niềm vui, lợi ích cho con em của công nhân và cả chính họ nữa.
- Đối với công nhân, nếu có cơ sở GDMN trong nơi làm việc thì hiệu quả tốt nhất là tâm lý của con cái và bố mẹ đều ổn định.
- Đóng góp của cơ sở GDMN trong nơi làm việc cho công ty.
- Kết quả khảo sát cho thấy các doanh nghiệp Hàn Quốc đánh giá rằng, việc thành lập cơ sở GDMN trong công ty đã có những ảnh hưởng tích cực đối với công ty, thứ nhất là “Sự gắn bó với công ty và nâng cao hình ảnh bên ngoài của công ty”, thứ hai là “Thay đổi nhận thức về nguồn lao động nữ” và “Sức sản xuất được cải thiện”.
- Kết quả khảo sát này cho thấy sau khi các phụ huynh gửi con cái vào cơ sở GDMN thì hình ảnh của công ty, sự thay đổi nhận thức về nguồn nhân lực nữ và sức sản xuất đã được cải thiện và nâng cao..
- Những ảnh hưởng đối với doanh nghiệp khi cơ sở GDMN hoạt động.
- Dù vậy, ở một số doanh nghiệp, sự duy trì mô hình cơ sở GDMN cũng đang đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của doanh nghiệp..
- Không chỉ ở các đối tượng điều tra được hỏi mà ở tất cả các cấp quản lý người lao động, thông qua các buổi nói chuyện, cũng tỏ ra đồng cảm về sự cần thiết phải xây dựng hệ thống cơ sở GDMN trong các cơ quan, đơn vị.
- Và quan trọng hơn hết đó là vì một xã hội mạnh khoẻ, cần thiết phải có những chế tài hay chính sách quy định khi thành lập doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp lớn bắt buộc phải có cơ sở GDMN trong nơi làm việc..
- Cuối cùng, chúng tôi muốn nói thêm một điều là khi thực hiện cuộc điều tra này và trong thời gian nghiên cứu cơ sở GDMN trong nơi làm việc, chúng tôi thấy còn nhiều hạn chế trong việc thu thập tài liệu và trong nghiên cứu vẫn còn nhiều thiếu sót.
- Đây mới là cơ sở ban đầu để tiến tới xây dựng những quy định của pháp luật về chính sách cơ sở GDMN..
- Lee Kung suk (Chủ biên), Nghiên cứu chính sách phát triển cơ sở giáo dục cho con cái lao động nữ tại khu vực Seoul, NXB Bộ Lao động, Hàn Quốc tr.