« Home « Kết quả tìm kiếm

Chế định nghĩa dưỡng trong pháp luật triều Nguyễn, đối sánh với pháp luật Việt Nam đương đại


Tóm tắt Xem thử

- Tử hệ nghĩa dưỡng là một tử hệ giả tạo (hay nhân tạo) được thiết lập bởi ý chí của các tư nhân trong những hoàn cảnh và thể thức được luật pháp chuẩn nhận, nó cũng phát sinh những tương quan pháp lý tương tự như trong tử hệ tự nhiên, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
- Ngày xưa, người ta thường nuôi con nuôi do sự từ tâm, do sự dị đoan hay do sự mưu lợi.
- Tuy nhiên, ở Luật Gia Long đã có sự phân biệt chặt chẽ giữa việc nghĩa dưỡng và việc lập tự, trong đó, nghĩa dưỡng chỉ là việc nuôi con nuôi thông thường, còn sự lập tự là kén chọn người nối dõi tông đường và tiếp tục việc thờ phụng tổ tiên..
- Trái lại, đối với việc lập tự, Luật bắt buộc phải là người đồng tông để khỏi gây rối loạn trong việc thờ phụng tổ tiên (khoản 4 Điều 76 Luật Gia Long và lời chú) 1.
- Dưỡng tử cũng có thể là một đứa trẻ sơ sinh dưới 3 tuổi đã bị vứt bỏ, không biết cha mẹ đẻ của nó là ai và họ tên của nó là gì (lệ 5 Điều 76 Luật Gia Long) 2.
- c) Ba là, trong trường hợp nếu biết rõ cha mẹ đẻ của dưỡng tử thì việc nhận dưỡng tử phải được cha mẹ đẻ ưng thuận.
- Nguyên tắc này được suy luận từ Điều 77 Luật Gia Long, theo đó, nhà chức trách sẽ trừng phạt 90 trượng và đồ 2 năm rưỡi đối với những ai bắt được con trai, con gái của nhà lương thiện lạc đường mà không đem nộp cho quan, lại để ở nhà mình hoặc đem bán đi cho người khác làm con cháu 3.
- a) Một là, nghĩa tử không phải mang họ của nghĩa phụ và nghĩa mẫu (Điều 76 Luật Gia Long) 5 .
- Đây là điểm khác biệt trọng yếu so với định chế lập tự, vì đối với người lập tự bao giờ cũng phải chọn người trong họ tộc của nghĩa phụ..
- c) Ba là, vì vẫn đội họ của bản tông nên nghĩa tử không thể mất hết liên lạc với gia đình cha mẹ đẻ của mình.
- Tuy đối với cha mẹ nuôi, họ có nghĩa vụ phải phụng dưỡng như con đẻ đối với cha mẹ của mình và không được tự ý bỏ đi khi cha mẹ nuôi già yếu để thể hiện lòng biết ơn về công nuôi nấng của cha mẹ nuôi..
- Song, trong cả hai trường hợp ấy, dưỡng tử có quyền được xin trở về lại với nhà cha mẹ đẻ, nếu như cha mẹ nuôi đã sinh được con trai, hoặc khi cha mẹ đẻ của người con nuôi đó không còn có người con trai nào để lo việc phụng dưỡng tuổi già và làm nhiệm vụ hương khói 7.
- d) Bốn là, một khi dưỡng tử xin phép được trở về lại với bản tông thì người đó không được phép đem theo về nhà cha mẹ đẻ của mình những tài sản đã thu nhận được từ nhà cha mẹ nuôi..
- e) Ngoài ra, trong Luật Gia Long còn minh thị dự liệu trường hợp các dưỡng tử được nhận nuôi từ khi còn dưới 3 tuổi sẽ được hưởng một phần gia tài của cha mẹ nuôi, và không ai trong gia đình cha mẹ nuôi có quyền bắt ép các trẻ ấy trở về lại với bản tông của chúng để xâm chiếm phần gia tài được hưởng của nó 8.
- a) Thân quyền về nhân thân của cha mẹ nuôi đối với nghĩa tử.
- Cũng giống như trong tử hệ chính thức, cha mẹ nuôi có toàn quyền về nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục và đại diện cho nghĩa tử, quyết định nơi ở và hôn nhân của họ.
- Đồng thời cha mẹ nuôi cũng có nghĩa vụ đại diện cho nghĩa tử trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi phạm pháp mà nghĩa tử gây ra và phải chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi phạm pháp ấy.
- ông bà cha mẹ và các người ở chung với chính phạm, bất luận là đã ở riêng hay chưa, và ghi danh cùng sổ hộ tịch hay khác sổ hộ tịch, không cứ là đốc tật hay phế tật đều phải phạm tội cả.
- đối với mẹ của can phạm thì cấp làm nô tì nhà quan.
- Còn đối với tội mưu bạn (tức phản nước theo giặc) thì cha mẹ, ông cháu, không cứ ghi danh cùng sổ hộ tịch hay khác sổ, đều phải tội lưu 2000 dặm 9 .
- Đây là điều luật quy định đối với những người có quan hệ thân ruột trong gia đình, nhưng cũng áp dụng chung cho cả đối với các quan hệ giữa nghĩa phụ mẫu với nghĩa tử (trường hợp giữa Lê Văn Duyệt và Lê Văn Khôi là một thí dụ điển hình).
- Cũng có những trường hợp trách nhiệm tập thể của tất cả các thân thuộc trong gia đình, kể cả đối với thân thuộc nghĩa dưỡng, chỉ quy trách nhiệm vào người gia trưởng mà thôi.
- Chẳng hạn, Điều 29 Luật Gia Long quy định: “Nếu người một nhà cùng phạm tội thì chỉ bắt tội đối với người tôn trưởng” 10 .
- Để đảm bảo trật tự gia đình, luật pháp cho phép ông bà cha mẹ được dùng nhục hình đối với con cháu, kể cả dưỡng tử, để giáo dục chúng..
- Đối với những người có con cháu làm quan tước và được phong tặng quan tước sánh ngang với con cháu, Luật Gia Long cho họ được hưởng chế độ hình sự của quan chức.
- b) Thân quyền về nhân thân của nghĩa tử đối với nghĩa phụ mẫu.
- Nghĩa tử được quyền nhận sự nuôi dưỡng, dạy bảo, tác thành của nghĩa phụ mẫu.
- Nghĩa tử phạm tội mạ lỵ, đả thương đối với nghĩa phụ mẫu thì bị trừng trị nặng hơn đối với trường hợp người thường.
- Nghĩa tử có nghĩa vụ phải phụng dưỡng nghĩa phụ mẫu (theo Điều 307 Luật Gia Long), không được kiện cáo nghĩa phụ mẫu (theo Điều 306 Luật Gia Long).
- Nghĩa tử có nghĩa vụ phải tôn trọng thời kỳ cư tang đối với nghĩa phụ mẫu.
- Nghĩa tử có nghĩa vụ phải che giấu các tội phạm của nghĩa phụ mẫu (theo Điều 31 Luật Gia Long), phải theo nghĩa phụ mẫu đi đến và ở tại nơi lưu đày nếu nghĩa phụ mẫu bị phạm tội phải đi đày (theo Điều 14 Luật Gia Long), phải thay thế nghĩa phụ mẫu chịu các hình phạt xuy trượng nếu nghĩa phụ mẫu bị phạm tội xuy trượng và sẽ được giảm 1 bậc tội giống như con ruột đối với cha mẹ đẻ của mình.
- Để đảm bảo nghĩa vụ đạo lý, nhiều khi đứng trước sự tương tranh giữa luân lý và luật pháp, nhà làm luật đã chấp nhận sự hy sinh của trật tự xã hội, cho phép được giảm hình hoặc hoãn hình đối với các can phạm có nghĩa phụ mẫu già yếu, không nơi nương tựa.
- Đại Nam hội điển sự lệ đã nêu rõ: “Phàm trong bộ có đề lên kết án về tội quân lưu đồ và tội được tha xử tử phải lưu, nhưng trước khi đem đi phát phối, kẻ tù phạm ấy tự khai ra là có cha mẹ già ốm cần phải hầu nuôi, hoặc có mẹ ở goá giữ tiết đã hơn 20 năm, nhà không có người nào đến tuổi thành đinh, thì quan phủ huyện phải tra xét rõ ràng, quan ở doanh trấn phải xét kỹ lại và báo cáo cho bộ biết, đem người can phạm về tội quân lưu đồ ấy chiếu theo số trượng phải phạt đem thi hành ngay.
- Thậm chí, có khi để phụng dưỡng cha mẹ già, luật pháp còn cho phép được giảm hình xử tử đối với bản thân người phạm tội.
- Ngoài ra, nghĩa tử cũng được hưởng lệ ấm sung..
- Thân quyền về tài sản.
- a) Chế định tài sản khi nghĩa phụ mẫu còn sống.
- Dưới quyền của người gia trưởng, theo cổ luật Đông phương nói chung và Luật Gia Long nói riêng, những người trong gia đình, kể cả nghĩa tử, không được phép có tài sản riêng.
- Điều này bắt nguồn từ luân lý Nho giáo, được sách Lễ ký nêu rõ là: “Phụ mẫu tại bất cảm hữu kỳ thân, bất cảm tư kỳ tài”, có nghĩa là khi cha mẹ còn sống thì con cái không dám có đến cả thân thể của mình, cũng như không được có tài sản riêng tư.
- Do đó, Điều 82 Luật Gia Long quy định: “Phàm không phải ông bà cha mẹ cho phép, mà con cháu tự động lập sổ hộ khẩu riêng và.
- Điều luật này áp dụng chung cho cả đối với nghĩa tử.
- Sở dĩ con cháu ruột và cả nghĩa tử không được quyền phân chia gia sản khi cha mẹ ông bà đang còn sống là vì tài sản ấy thuộc quyền quản lý của ông bà cha mẹ.
- Trong tinh thần bảo vệ cuộc sống chung của gia đình, Điều 83 Luật Gia Long dự liệu: “Phàm kẻ ty ấu không tuân lệnh người tôn trưởng ở chung (nghĩa là người thân thuộc ở hàng trên và nhiều tuổi), tự tiện tiêu dùng của chung trong nhà, nếu tài sản đó trị giá là 10 lạng bạc thì phải bị đánh 20 roi, thêm mỗi 10 lạng thì tội được tăng nặng thêm 1 bậc, nhưng chỉ đến 100 trượng là tối đa” 12 .
- Để giải thích điều này, nhà lập pháp triều Nguyễn ghi chú như sau: “Nếu các người ty ấu ở chung cùng tôn trưởng và nếu các tài sản đều để chung, việc quản trị các tài sản phải hoàn toàn do các người tôn trưởng đảm nhiệm.
- b) Chế định tài sản khi nghĩa phụ mẫu mệnh một.
- Trong cổ luật Việt Nam, nhà làm luật đã quy định luật thừa kế theo lợi ích lâu dài của gia đình phụ hệ có khác với quan niệm chật hẹp về vấn đề thừa kế của pháp luật Tây phương.
- Mọi sự quy định về thừa kế của cổ luật Việt Nam đều được quy hướng về mục đích nhằm củng cố nền tảng gia đình và bảo đảm cho sự lưu truyền dòng dõi hết đời này sang đời khác.
- Nói cách khác, cổ luật Việt Nam đã coi thừa kế không phải là quyền lợi cá nhân được di tặng tài sản cho thân thuộc và nghĩa tử của mình hay quyền được hưởng tài sản của người mệnh một để lại theo quan niệm của pháp luật Tây phương hiện đại.
- Bởi bản thân từ ngữ “thừa kế” trong cổ luật Đông phương là vốn được rút gọn từ cụm từ “kế tự thừa diêu”.
- “thừa kế”, các nhà lập pháp Đông phương cũng đã loại khỏi phạm vi các mối quan tâm tầm thường vị kỷ, chỉ nhằm lưu truyền và thụ tặng tài sản, để được nâng lên thành một định chế về tế tự, với mục đích duy trì vĩnh viễn việc phụng sự tổ tiên và thờ cúng những người đã cưu mang nuôi dưỡng mình.
- Và việc tiếp nhận tài sản của người mệnh một để lại (hay di tặng) chính là một phương tiện để thực hiện mục đích đền ơn đáp nghĩa, theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” trong quan niệm của nhân dân ta.
- Do bản chất đó, trong thừa kế, dù có chúc thư hay không có chúc thư, vấn đề chính yếu cũng vẫn là thừa kế về phương diện phụng tự gia tiên và những người có ơn nghĩa sinh thành dưỡng dục.
- Tuỳ theo cấp độ trách nhiệm thờ tự trong phạm vi gia đình và họ tộc mà ta có thể phân chia thành hai loại thừa kế: thừa kế hương hoả (hay tự sản) và thừa kế thông thường (hay di sản)..
- Thừa kế hương hoả (tự sản):.
- Hương hoả là tài sản dùng để thờ cúng tổ tiên hay ông bà cha mẹ, bao gồm cả nghĩa phụ mẫu đối với nghĩa tử.
- Còn nếu một khi người cha chết mà không kịp làm chúc thư, nhưng có để lại gia sản cho các con, thì bổn phận các con lúc chia tài sản phải trích ra 1/20 lập làm của hương hoả và giao cho người con trai trưởng làm nhiệm vụ giám thủ lo việc hương khói.
- Người quả phụ cũng có thể lập hương hoả cho chồng với các tài sản do chồng để lại hoặc do mình tạo lập ra được.
- Khi một gia đình tuyệt tự, không còn ai trong họ có thể kế tự, thì con gái của người mệnh một được nhận tài sản thừa kế (Điều 85 Luật Gia Long).
- Nếu gia đình tuyệt tự không có cả con gái thì cho phép giao tài sản ấy cho một người gia nhân để lo việc tế tự, và số gia sản được giao không quá 30 mẫu ruộng và 3.000 quan tiền (chỉ dụ năm Thiệu Trị 4) 15 .
- Thừa kế thông thường (di sản):.
- Di sản là tài sản mà người chết để lại cho những người thừa kế của mình.
- Tích sản là tất cả các tài sản của người mệnh một để lại, gồm cả bất động sản (ruộng, vườn, nhà, đất.
- Nếu những người thừa kế được hưởng phần tích sản thì cũng phải gánh vác phần tiêu sản, vì theo nguyên tắc, tất cả gia tài (gồm cả tích sản lẫn tiêu sản) phải được chuyển dịch sang cho những người thừa kế.
- Trong lĩnh vực thừa kế, cổ luật Việt Nam cũng có phân biệt thành 2 loại: thừa kế không có chúc thư và thừa kế có chúc thư..
- Thừa kế không có chúc thư:.
- Trong cổ luật, khi một trong hai người phối ngẫu mệnh một, gia sản không phải đem chia ngay cho những người thừa kế.
- Di sản chỉ truyền thừa cho người thừa kế khi nào người phối ngẫu còn lại mệnh một.
- Trong việc phân chia di sản, Lệ 1 Điều 83 Luật Gia Long quy định: Ngoại trừ phẩm tước tập ấm và tự sản, các tài sản còn lại của người mệnh một được chia đều cho các con, không phân biệt con của vợ cả, vợ thứ hay nàng hầu 16 .
- Điều 76 Luật Gia Long còn cho phép nghĩa tử được hưởng quyền thừa kế một phần gia tài của cha mẹ nuôi nếu như chúng đã bị vứt bỏ và được nghĩa phụ mẫu thu nuôi từ lúc dưới 3 tuổi và không ai trong gia đình của cha mẹ nuôi được phép bắt ép đứa trẻ ấy trở về lại bản tông để xâm chiếm phần gia tài được hưởng của chúng 17.
- Thừa kế có chúc thư:.
- Đây là loại thừa kế phát sinh do ý chí của người lập chúc phát biểu từ lúc sinh thời.
- Đối với loại di sản có chúc thư thì đương nhiên chúng được chuyển giao cho người thừa kế có tên trong di chúc.
- Theo tục lệ Việt Nam và được cổ luật thừa nhận, thì những nghĩa tử khác, trừ người nghĩa tử lập tự đã được thừa hưởng phần hương hoả (xem trên), đều được chia phần gia tài của nghĩa phụ mẫu, nếu như đã có chúc thư của cha mẹ nuôi thiết lập lúc sinh thời.
- Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, một khi dưỡng tử xin phép trở về lại với bản tông thì không được phép đem về lại nhà cha mẹ đẻ của mình những thứ tài sản đã được thụ nhận trong thời gian ở nhà cha mẹ nuôi..
- Như vậy, tuy có phần hạn hẹp so với con đẻ, song quyền lợi lý tài của người con nuôi vẫn được pháp luật triều Nguyễn thừa nhận và bảo vệ.
- Đi vào cụ thể, trong chế định nuôi con nuôi, Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 xác định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người nhận làm con nuôi” (Điều 67).
- “nghiêm cấm [các trường hợp] lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác” (Điều 67)..
- Đó cũng là một lẽ thường tình trong đạo nghĩa tốt đẹp của người Việt Nam, đâu phải là sự “bóc lột sức lao động”? Song, trong Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000, nhà làm luật đã không hề minh định nghĩa vụ này của người được nuôi đối với cha mẹ nuôi thì làm sao gọi là thoả đáng.
- Ở Điều 74, Luật viết: “Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi”.
- Nhưng đến Điều 77, Luật quy định: “Con nuôi đã thành niên, cha mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi....
- có quyền tự mình yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại Điều 76 của luật này”.
- Và ở khoản 1 Điều 76, Luật cho phép: “Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi”.
- Đến Điều 78, cũng là điều cuối cùng của chương nuôi con nuôi, Luật quy định như sau: “Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của toà án, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt.
- Trong trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó.
- nếu con nuôi có công sức đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình cha mẹ nuôi thì được trích một phần từ khối tài sản chung đó theo thoả thuận giữa con nuôi và cha mẹ nuôi;.
- Khi việc nuôi con nuôi chấm dứt, thì theo yêu cầu của cha mẹ đẻ hoặc của người đã làm con nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc người đã làm con nuôi được lấy lại họ, tên mà cha mẹ đã đặt”..
- Những người con nuôi bất nghĩa đã thành niên, nếu muốn trốn tránh nghĩa vụ đền ơn đáp nghĩa đối với cha mẹ nuôi, sẽ dựa vào đây để xin chấm dứt quan hệ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
- 2 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.278..
- 3 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.282..
- 4 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.278..
- 5 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.278..
- 6 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.278 – 279..
- 7 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.278..
- 8 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.281..
- 10 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.181..
- 11 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.290..
- 12 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.291..
- 13 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.291..
- 16 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.291..
- 17 Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), tập II, sđd, tr.281.