« Home « Kết quả tìm kiếm

Đánh giá các yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của một số nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba trong giai đoạn vận hành


Tóm tắt Xem thử

- ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ RỦI RO ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA MỘT SỐ NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN TRÊN LƯU VỰC SÔNG BA TRONG GIAI ĐOẠN VẬN HÀNH.
- Crystal Ball, lưu vực sông Ba, tài chính, thủy điện, rủi ro, vận hành.
- Trong đó, lưu vực sông Ba với các hồ chứa thủy điện có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây Nguyên.
- Do đó, bài báo này sẽ mô phỏng mức độ tác động của các yếu tố:giá điện, sản lượng điện, giá vốn sản xuất điện, chi phí tài chính, thuế thu nhập doanh nghiệp, chi phí quản lý doanh nghiệp đến hiệu quả tài chính của 3 nhà máy thủy điện: Sông Ba Hạ, Sông Hinh, Krông Hnăng dựa trên ứng dụng Crystal Ball.
- Đồng thời kết hợp với phương pháp định tính và dựa trên ứng dụng SPSS (phương pháp phân tích nhân tố EFA), mô hình tổng quát được đề xuất gồm 12 yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba trong giai đoạn vận hành.
- Tuy nhiên, để có đánh giá toàn diện hơn về mối quan hệ giữa nước - năng lượng - thực phẩm, cần nghiên cứu bài toán tổng hợp ngành liên quan đến nguồn nước trên lưu vực sông Ba (lương thực, tưới tiêu, cấp nước sinh hoạt, phát điện và môi trường sinh thái)..
- Đánh giá các yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của một số nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba trong giai đoạn vận hành.
- Thủy điện được coi là công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo tự nhiên, đáng tin cậy và chi phí thấp (Brown et al., 2011.
- Dự án thủy điện có chi phí đầu tư ban đầu lớn, thời gian xây dựng dài, tuổi thọ của nhà máy từ 40 năm, có khi đến cả 100 năm cho nên quá trình vận hành tiềm ẩn nhiều rủi ro.
- vấn đề tính toán khả thi (30%) cũng như các yếu tố ngẫu nhiên theo thời gian, phụ thuộc vào tự nhiên đang chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ do biến đổi khí hậu và các yếu tố đầu vào khác.
- Vì vậy, dự kiến dòng tiền khó tránh khỏi sai sót và tác động đến những kỳ vọng về tài chính trong tương lai của năm vận hành (Jenssen et al., 2000)..
- Mặt khác, trên một lưu vực sông, các hồ chứa của nhà máy thủy điện đa mục tiêu, nếu như không có sự hợp tác hài hòa giữa mục tiêu về sản xuất điện và phát triển kinh tế xã hội ở vùng hạ lưu thì có thể hàng năm sẽ mất đi trung bình 10% lợi ích thu được từ việc hợp tác này khoảng 350 triệu USD/năm (Tilmant and Kinzelbach, 2012).
- Đồng thời, khi vận hành một hệ thống thủy điện trong một thị trường điện cạnh tranh phức tạp thì kế hoạch vận hành nhà máy và tài chính có rủi ro rất cao (Sharma et al., 2015).
- Tương tự, trong giai đoạn lập kế hoạch, những sai lầm về nguồn nước, lựa chọn địa điểm, cấu trúc địa chất có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng ở giai đoạn vận hành (Cengiz et al., 2016)..
- Bên cạnh đó, các yếu tố như xói mòn, vòng đời, độ bền, khả năng phục hồi, sự linh hoạt, tính bền vững sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất của tuabin, làm tăng chi phí sửa chữa, thay thế, bảo trì trong vận hành (Rai et al., 2019.
- Đặc biệt, nhu cầu về tài nguyên nước ngày càng tăng lên do sự biến đổi khí hậu và đô thị hóa đã làm mất cân bằng trạng thái cân bằng nhu cầu nước cho các lưu vực sông, mâu thuẫn giữa lợi nhuận phát điện với nhu cầu nước ở hạ lưu ( Chen et al., 2020).
- Thêm vào đó, giá trị kinh tế trong sản xuất điện của từng nhà máy thủy điện cũng khác nhau khi bị tác động bởi công suất, quy mô, hồ chứa của từng nhà máy thủy điện trên cùng lưu vực sông (Cengiz, 2018.
- Do đó, trong điều kiện môi trường suy giảm, hiệu quả tài chính của các nhà máy thủy điện có hoặc không có tích hợp với các công trình thủy lợi trên.
- lưu vực sông cần có các phương pháp tổng hợp để đánh giá sự bền vững về kinh tế và môi trường khi trong giai đoạn vận hành..
- Tại Việt Nam, hiệu suất của 40 nhà máy thủy điện từ ba lưu vực lớn giữa các ranh giới: sông Hồng, bờ biển Việt Nam, hạ lưu sông Mê Kông Việt Nam từ năm 1995 đến giữa năm 2014 đã được đánh giá bằng mô phỏng dòng chảy.
- Kết quả cho thấy các dòng chảy mô phỏng có mối tương quan đáng kể với dòng chảy được đo vào các đập nhà máy thủy điện và chiếm 87.7% biến động trong sản xuất điện hàng tháng và một kết quả khác cho thấy ước tính các đập lớn tổn thất trung bình khoảng 18.2% sản lượng tương đương của chúng cho mục đích kiểm soát lũ (Nguyen-Tien et al., 2018)..
- Tại Tây Nguyên, Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Tây Nguyên đã chỉ ra lượng mưa năm 2018 trên lưu vực sông Ba chỉ đạt khoảng 60% và mùa mưa lại kết thúc sớm.
- Sông Ba đang đối mặt với đợt hạn lịch sử, nhiều nghiên cứu đã đánh giá và báo cáo về tác động của hạn hán cũng như biến đổi khí hậu khu vực Tây Nguyên, cao điểm mùa khô, hạn hán có thể diễn ra rất khốc liệt trong thời gian dài.
- Khô hạn kéo dài cũng tác động nghiêm trọng đến hoạt động của hệ thống thủy điện trên lưu vực sông Ba (Nguyễn Đức Ngữ, 2005.
- Đồng thời, hệ thống hồ chứa trên lưu vực sông Ba là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chế độ thủy văn hạ lưu nhưng đến năm 2008 hồ chứa Ba Hạ hoạt động điều tiết dòng chảy lại gây bất lợi cho hạ du vào mùa cạn (Nguyễn Tiền Giang và ctv., 2016)..
- Thêm vào đó, các kịch bản phân vùng hạn hán lưu vực sông Ba trong bối cảnh biến đổi khí hậu cho thấy diện tích không bị hạn ở lưu vực sông Ba ngày càng giảm (theo kịch bản 4.5 giảm còn gần 2.000 km 2 và kịch bản RCP 8.5 chỉ còn trên 1.000km 2 và diện tích hạn nhẹ, hạn vừa, hạn nặng tăng dần theo các kịch bản mô phỏng (Nguyễn Nam Thành và ctv., 2019).
- Có thể nhận thấy biến đổi khí hậu ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến tình hình hạn hán lưu vực sông Ba, không chỉ đến sản xuất mà còn tác động đến vấn đề cấp nước ngọt phục vụ sinh hoạt cho lưu vực này.
- Tuy nhiên, nếu yêu cầu cấp nước nhiều sẽ ảnh hưởng đến sản lượng điện, dung tích chống lũ lớn sẽ ảnh hưởng đến công suất phát điện và khả năng tích nước đầy hồ để phục vụ cấp nước và sản xuất điện trong mùa khô cũng như mực nước trong hồ sụt giảm về mực nước chết quá nhanh làm ảnh hưởng tới tuổi thọ của các thiết bị khi vận hành với cột nước thấp.
- Do đó, mối quan hệ giữa tài nguyên nước và hiệu quả tài chính của các thủy điện ở lưu.
- vực sông Ba cần được quan tâm nghiên cứu cũng như xem xét các yếu tố rủi ro có thể tác động..
- Lưu vực sông Ba là một trong 9 lưu vực sông lớn nhất Việt Nam, có nguồn thủy năng khá lớn.
- Các hồ chứa trên hệ thống sông Ba là có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây Nguyên.
- Hiện nay, hệ thống hồ chứa này bao gồm các hồ chứa lớn: hồ An Khê-Ka Nak, Ayun Hạ, Krông Hnăng, Sông Ba Hạ, Sông Hinh (Hình 1)..
- Hình 1: Sơ đồ vị trí các hồ thủy điện trên lưu vực sông Ba.
- Hiện nay, việc vận hành các hồ chứa tuân thủ theo quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba với các mục tiêu chính là phát điện, cấp nước, chống lũ tùy theo vai trò và mục tiêu của các hồ chứa theo Quyết định số 878/QĐ-TTg ngày 18 tháng 07 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ..
- Hồ Krông Hnăng có dung tích hữu ích nhỏ (108.5 triệu m 3 /năm), trong mùa cạn phát điện với Q khá lớn và bổ sung nước cho hồ Sông Ba Hạ.
- Việc xây dựng các công trình thủy điện trên sông Ba đã làm xuất hiện những đoạn sông chết ở hạ lưu các đập thủy điện như đoạn.
- sông chết sau đập thủy điện của công trình thủy điện Sông Ba Hạ dài đến 8 km (Vũ Hoàng Hoa, 2015)..
- Đồng thời, từ thượng nguồn thủy điện Sông Ba Hạ và Sông Hinh đến vùng hạ lưu thành phố Tuy Hòa, có những khúc sông gần như ngừng chảy, nhiều đoạn sông chỉ còn là một mương nước cạn rộng vài chục mét, lộ lên những cồn cỏ rộng lớn như sa mạc cát (Trình Kế, 2013) hay lượng nước bổ sung từ các suối Eatrol, Ea Đin trong thời kỳ khô hạn không đủ cung cấp nước cho các trạm bơm như Chí Thán, Bến Trâu, Đức Bình Tây.
- Vì vậy, những tháng đầu năm 2020, nhà máy thủy điện Sông Hinh đã giảm đi 50% công suất của nhà máy so với thiết kế do lượng nước do hạn hán (Nhã Uyên, 2020)..
- Hồ Sông Ba Hạ nằm ở bậc thang cuối cùng trên bậc thang sông Ba, nếu phát điện theo chế độ phủ đỉnh của công trình thủy điện Sông Ba hạ sẽ gây khó khăn và đe dọa việc duy trì ổn định nguồn nước đến 28.5 m 3 /s cho đập Đồng Cam ở hạ lưu - cách hồ thủy điện Sông Ba Hạ chỉ 30 km - để tưới cho 19,500 ha đất canh tác (Vũ Hoàng Hoa, 2015).
- Chính vì vậy, trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên nước trên lưu vực Sông Ba, đã nảy sinh các mâu thẫu: mâu thuẫn giữa trung thượng lưu với hạ lưu, mâu thuẫn giữa nhu cầu dùng nước với nguồn nước, mâu thuẫn về nước giữa tưới và phát điện, mâu thuẫn về nước giữa môi trường với các ngành khác, vấn đề chuyển nước sông Ba sang sông Kone và sông Bàn Thạch cũng ảnh hưởng đến dòng chảy trong các mùa dưới biến đổi khí hậu (Lê Đức Thường, 2015).
- Vì vậy, cần xác định các yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính hoạt động của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba trong giai đoạn vận hành..
- thang đo thông qua hai công cụ là hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố EFA cho 70 phiếu khảo sát được gửi đến các đối tượng liên quan trong lĩnh vực thủy điện sau khi nhập dữ liệu, kiểm tra, làm sạch và hợp lệ để đưa vào phân tích (số lượng nhân tố là 15 thì cở mẫu = 15*5=75 bảng câu hỏi (Bollen, 2005) đã xác định được 9 yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba trong vận hành được đánh giá qua chỉ tiêu tài chính.
- Trên cơ sở đó, ứng dụng Crystal Ball (goodness-of-fit) tự động nhận dạng phân phối xác suất của các biến số và phạm vi biến thiên từ chuỗi dữ liệu hoạt động vận hành thực tế của 3 nhà máy (Krông Hnăng, Sông Ba Hạ, Sông Hinh) trong giai đoạn vận hành, lập bảng tính mô phỏng và tiến hành mô phỏng hiệu quả tài chính nhà máy thủy điện.
- xuất điện năng thủy điện được xây dựng từ dữ liệu thực tế được cung cấp hằng năm của nhà máy thủy điện, báo cáo tài chính đã được kiểm toán, và sự.
- tham vấn của các nhà quản lý có liên quan từ khi đi vào vận hành khai thác cho đến Quý 1 năm 2020..
- Trong đó, nhà máy thủy điện Krông Hnăng từ năm 2010 đến Quý 1 năm 2020, thủy điện Sông Hinh từ năm 2000 đến Quý 1 năm 2020, thủy điện Sông Ba Hạ từ 2009 đến Quý 1 năm 2010, gồm: sản lượng, giá điện, các chi phí, doanh thu.
- Sau khi thực hiện 1,000,000 lần phép thử Monte Carlo với dạng hàm phân phối xác suất của các biến đầu vào ở Bảng 1 kết hợp với bảng tính mô phỏng trong Excel, kết quả mô phỏng doanh thu bán điện của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba thể hiện ở Hình 3 (A: Sông Ba Hạ, B: Krông Hnăng, C: Sông Hinh)..
- mô phỏng rủi ro nhà máy thủy điện Sông Hinh.
- Dạng hàm phân phối các biến mô phỏng rủi ro nhà máy thủy điện Krông Hnăng.
- Dạng hàm phân phối các biến mô phỏng rủi ro nhà máy thủy.
- điện Sông Ba Hạ.
- A: Sông Ba Hạ.
- B: Krông Hnăng.
- C: Sông Hinh.
- Hình 3: Ảnh hưởng của yếu tố sản lượng, giá điện đến doanh thu của nhà máy thủy điện Kết quả mô phỏng cho thấy rủi ro về giá ảnh.
- Cụ thể, đối với nhà máy thủy điện Sông Ba Hạ (công suất 220 MW, dung tích hồ chứa 349.7 x 10 6 m 3 ) có sản lượng điện chiếm tỷ trọng 24.2%, giá bán.
- Đối với thủy điện Sông Hinh (công suất 70 MW, dung tích hồ chứa 357 x 10 6 m 3 ) (C) thì giá bán ảnh hưởng đến 78%, còn sản lượng 22% và thủy điện Krông Hnăng (công suất 64 MW, dung tích hồ chứa 165.78 x 10 6 m 3.
- Tuy nhiên, nhà máy thủy điện Krông Hnăng lại có chi phí tài chính (53.1%) cao hơn so với yếu tố chi phí giá vốn hàng bán (43.9%) (Hình 4)..
- Hình 4: Ảnh hưởng của giá vốn hàng bán, chi phí tài chính, chi phí quản lý doanh nghiệp đến chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy thủy điện.
- thủy điện Sông Ba Hạ (A), Krông Hnăng (B), Sông Hinh (C)..
- Hình 5: Ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến lợi nhuận sau thuế của nhà máy thủy điện Có thể kết luận rằng, giá bán (giá bán điện) là.
- yếu tổ rủi ro lớn nhất tác động đến doanh thu bán điện cũng như lợi nhuận sau thuế đối với tất cả các nhà máy thủy điện trong vận hành, nhiều nhất là Sông Hinh (Sông Ba Hạ: 58%, Sông Hinh 71.7%, Krông Hnăng: 52.2.
- Yếu tố thứ hai là sản lượng điện (Sông Ba Hạ:19%, Sông Hinh: 21.5%, Krông Hnăng: 41.6.
- điều này cho thấy rằng đối với những nhà máy thủy điện có dung tích hồ chứa nhỏ (Ba Hạ: công suất 220 MW, dung tích hồ chứa 349.7 x 10 6 m 3 , Sông Hinh: công suất 70 MW, dung tích hồ chứa 357 x 10 6 m 3 , Krông Hnăng: công suất 64 MW, dung tích hồ chứa 165.78 x 10 6 m 3.
- cụ thể là hồ chứa Krông Hnăng thì rủi ro về sản lượng lớn hơn so với hai nhà máy thủy điện còn lại.
- Qua đây, có thể thấy rằng những nhà máy thủy điện có dung tích hồ chứa lớn (Sông Hinh) sẽ giảm thiểu được tác động do sự thay đổi của dòng chảy thủy văn đến hồ trong mùa cạn (với điều kiện là lượng nước tích trữ đảm bảo cho phát điện)..
- Tiếp theo là yếu tố giá vốn sản xuất điện (Sông Ba Hạ: 12.8%, Sông Hinh: 1.0%, Krông Hnăng:.
- máy trong vận hành tăng lên sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất của tuabin từ đó làm tăng tổn thất ảnh hưởng đến lợi nhuận, cho nên trong quá trình vận hành cần có kế hoạch kiểm tra thường xuyên, định kỳ các thiết bị của nhà máy thủy điện để giảm chi phí và tối ưu hóa tài chính trong vận hành sản xuất điện năng..
- Đối với yếu tố thứ tư là chi phí tài chính (Sông Ba Hạ: 9.6%, Sông Hinh: 0.6%, Krông Hnăng: 3.
- từng nhà máy thủy điện khác nhau có mức độ tác động khác nhau bởi chính sách lãi vay, chênh lệch tỷ giá, và nguồn vốn vay ngoại tệ, thời hạn thanh toán ảnh hưởng đến dòng tiền ròng của dự án và kéo dài thời gian hoàn vốn đầu tư.
- Sau đó, yếu tố thuế thu nhập doanh nghiệp (Sông Ba Hạ: 0.3%, Sông Hinh: 0.4%, Krông Hnăng: 0.6%) chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế khi các chính sách ưu tiên về thuế đã hết (trong 15 năm đầu từ khi đi vào hoạt động cả 3 nhà máy thủy điện được nghiên cứu đều được hưởng chính sách miễn, giảm thuế).
- có mức ảnh hưởng đến lợi nhuận của nhà máy thủy điện là thấp nhất (Sông Ba Hạ: 0.3%, Sông Hinh: 0.2%, Krông Hnăng:.
- Mặt khác, mức độ tin cậy về giá trị lợi nhuận sau thuế của nhà máy thủy điện sông Ba Hạ và.
- Mức độ tác động của các yếu tố rủi ro đến Lợi nhuận sau thuế của nhà máy thủy điện Sông Hinh.
- Kết quả mô phỏng này được mô phỏng dựa trên các số liệu thực tế theo báo cáo trong thời gian vận hành của từng nhà máy thủy điện đảm bảo yêu cầu tối thiểu của chuỗi dữ liệu để ứng dụng Crystal Ball (15 năm).
- Trong đó, Thủy điện Sông Hinh (21 năm), Sông Ba Hạ (12 năm), Krông Hnăng (11 năm).
- Đồng thời dựa trên kết quả khảo sát và tham vấn thực tế, 9 yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính nhà máy thủy điện.
- Trong đó, yếu tố tác động ít nhất là Chính sách tín dụng (lãi vay, mean=2.8), tác động lớn nhất là lượng nước dòng chảy giảm mạnh vào mùa khô do biến đổi khí hậu (mean=4.1), kế tiếp là giá điện và vấn đề độc quyền của EVN (mean=3.99), Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tác động trực tiếp đến công tác quản lý vận hành (mean =3.78), Chi phí hoạt động vận hành, sản xuất kinh doanh (mean = 3.875).
- Như vậy, kết hợp với cả kết quả khảo sát thực tế, đặc điểm của hệ thống thủy điện bậc thang và kết quả mô phỏng từ số liệu thực tế của 3 nhà máy đại diện, đã xác định được 12 yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của một số nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba trong giai đoạn vận hành và mức độ tác động được sắp xếp từ lớn đến nhỏ như sau:.
- (5) Sự ràng buộc về quy trình điều tiết vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Ba..
- (7) Vấn đề chuyển nước của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba không hợp lý từ sông Ba sang sông Kone, sông Bàn Thạch..
- (10) Năng lực công tác quản lý và vận hành các đập, hồ chứa để sản xuất điện, tưới tiêu và mục đích sử dụng khác trong vận hành khó khăn hơn do biến đổi khí hậu..
- (11) Sự phát sinh thêm các công trình phía thượng nguồn và vấn đề biên giới của lưu vực sông do chia sẽ nguồn nước..
- (12) Sự liên đới giữa các nhà máy điện trên lưu vực sông Ba do kiểu hệ thống thủy điện bậc thang..
- Nhìn chung, tất cả các yêu tố này đều có sự tác động lẫn nhau trong quá trình vận hành của các nhà máy thủy điện khi cùng trên một lưu vực sông, và những nhà máy thủy điện kiểu bậc thang sẽ bị tác động nhiều nhất trên cùng một lưu vực sông.
- Tuy nhiên, để có thể so sánh chính xác hơn về kết quả mô phỏng cần thêm số thời gian năm vận hành cho thủy điện Krông Hnăng và Sông Ba Hạ, vấn đề này sẽ được cập nhật trong những nghiên cứu tiếp theo để đối chứng và đưa ra đánh giá tổng quát..
- giá điện/ giá bán điện, vấn đề độc quyền mua bán điện của EVN/hợp đồng mua bán điện, thị trường điện cạnh tranh, sản lượng điện, sự ràng buộc về quy trình điều tiết vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Ba, lượng nước dòng chảy giảm mạnh vào mùa khô do biến đổi khí hậu, vấn đề chuyển nước của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba không hợp lý từ sông Ba sang sông Kone, sông Bàn Thạch, chi phí vận hành và sản xuất kinh doanh, gia tăng và xung đột về lợi ích nhu cầu dùng nước giữa tưới, cấp nước, phát điện và sự khác biệt về thời gian sử dụng nước giữa thượng lưu, hạ lưu do biến đổi khí hậu, năng lực công tác quản lý và vận hành các đập, hồ chứa để sản xuất điện, tưới tiêu và mục đích sử dụng khác trong vận hành khó khăn hơn do biến đổi khí hậu, sự phát sinh thêm các công trình phía thượng nguồn và vấn đề biên giới của lưu vực sông do chia sẽ nguồn nước, sự liên đới giữa các nhà máy điện trên lưu vực sông Ba do kiểu hệ thống thủy điện bậc thang, ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba giai đoạn vận hành với 3 nhà máy thủy điện đại diện (Sông Ba Hạ, Sông Hinh, Krông Hnăng)..
- Kết quả này được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý thủy điện nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra trong đánh giá tính khả thi của dự án thủy điện, lập kế hoạch vận hành hiệu quả trong điều kiện môi trường suy giảm để có thể đảm bảo lợi nhuận, ổn định sản xuất cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở lưu vực sông Ba..
- Đồng thời, kết quả làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành liên quan đến tài nguyên nước ở lưu vực khi thủy điện phát triển và đi vào vận hành tránh từ đó hạn chế được những xung đột lợi ích, mẫu thuẫn và cân bằng nhu cầu sử dụng tài nguyên nước cho phát triển toàn diện kinh tế - xã hội.
- Tuy nhiên, hạn chế của đề tài chỉ dừng lại ở một khía cạnh hẹp đó là phân tích độc lập về mặt hiệu quả tài chính của các nhà máy thủy điện, do đó cần nghiên cứu bài toán tổng hợp ngành liên quan đến nguồn nước trên lưu vực sông Ba để có đánh giá toàn diện hơn..
- Báo cáo tính toán và xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa các hồ sông Ba Hạ, Sông Hinh, Krông H’năng, Ayun Hạ và An khê - Ka Nak trong mùa cạn..
- Nghiên cứu quản lý bền vững tài nguyên nước lưu vực sông Ba trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
- Đánh giá vai trò và mục tiêu của các hồ chứa lưu vực sông Ba.
- thủy văn hạ lưu lưu vực sông Ba dưới tác động của hệ thống hồ chứa.
- Nghiên cứu xây dựng bản đồ phân vùng hạn hán lưu vực sông ba trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
- Nỗi lo thủy điện ở Phú Yên.
- Đề nghị các thủy điện trả nước về hạ lưu.
- Quyết định số 878/QĐ- TtTg về việc “Ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba” ngày .
- Những vấn đề môi trường bức xúc trong khai thác thủy điên trên lưu vực sông Ba và vấn đề quản lý kiểm