« Home « Kết quả tìm kiếm

Đánh giá sự biến động chất lượng nước ở Búng Bình Thiên, tỉnh An Giang


Tóm tắt Xem thử

- ĐÁNH GIÁ SỰ BIẾN ĐỘNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC Ở BÚNG BÌNH THIÊN, TỈNH AN GIANG.
- 1 Khoa Nông nghiệp-Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học An Giang.
- 2 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
- 3 Chi cục Thủy sản An Giang.
- Evaluation of water quality in Binh Thien lagoon, An Giang province.
- An Giang, Búng Bình Thiên, chất lượng nước.
- Water quality in Binh Thien lagoon, An Giang province, was studied to evaluate the fluctuation of physico-chemical parameters, and obtained results may serve as baseline information for lagoon management, specifically for the sustainable management of fisheries and aquaculture.
- Chất lượng nước ở Búng Bình Thiên (BBT), An Giang được nghiên cứu nhằm đánh giá sự biến động các chỉ tiêu thủy lý hóa trong búng làm cơ sở cho việc nuôi trồng, khai thác và bảo tồn nguồn lợi thủy sản theo hướng bền vững..
- Nghiên cứu đã được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2016 thông qua 12 đợt thu mẫu (theo nhịp thu mẫu 30 ngày/lần) bao gồm các chỉ tiêu: nhiệt độ, độ sâu, pH, TSS, N-NO 2.
- DO, COD, BOD, TAN, P-PO 4 3- và coliform, việc thu mẫu đã thực hiện ở các khu vực đầu búng, giữa búng và cuối búng, mỗi vị trí thu ở 2 tầng nước (tầng mặt cách mặt nước 50 cm và tầng đáy cách mặt đáy búng 50 cm).
- Kết quả thấy rằng chất lượng nước trong BBT có sự biến động theo thời gian và không gian, các chỉ tiêu nghiên cứu đều nằm trong mức cho phép ngoại trừ COD trong mùa khô và vượt mức cho phép tiêu chuẩn chất lượng nước mặt khi so sánh với QCVN 08-MT:2015/BTNMT (cột A1), chỉ có COD vượt mức ở các tháng mùa khô.
- Ngoài ra, coliform xuất hiện trong BBT mùa khô nhiều hơn mùa mưa mặc dù ở mức cho phép nhưng chứng tỏ hiện nay BBT đang tiếp nhận nguồn nước thải từ hoạt động của cộng đồng xung quanh..
- Đánh giá sự biến động chất lượng nước ở Búng Bình Thiên, tỉnh An Giang.
- Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
- Búng Bình Thiên (BBT) là hệ sinh thái nước ngọt tự nhiên tọa lạc vùng thượng nguồn huyện An Phú, tỉnh An Giang được hình thành từ một đoạn sông nơi tiếp nối sông Bình Di với sông Hậu, do quá trình bồi lấp theo thời gian ở cả hai đầu nối với hai sông tạo thành một hồ chứa nước ngọt gọi là BBT..
- Diện tích mặt nước của búng mùa khô là 200 ha và 800 ha vào mùa lũ (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang, 2012), và chất lượng nước nơi đây bị ảnh hưởng trực tiếp của sông Mekong, mức nước nơi đây có sự khác biệt giữa các tháng mùa mưa và mùa khô, khả năng trao đổi nước của BBT bị giới hạn do búng rộng nhưng miệng búng hẹp.
- Trong thực tế BBT chưa từng cạn nước vào mùa khô cho dù xung quanh nhiều nơi khô hạn, vì vậy đây là nơi sinh sống cư trú của nhiều loài thủy sản vào mùa khô.
- Vào mùa mưa, lưu lượng nước trên thượng nguồn đổ về BBT trở thành khu vực ngập nước lớn, các loài cá nước ngọt từ thượng nguồn xuôi theo dòng về sinh sống.
- Khu vực này thuận lợi cho việc thiết lập khu lưu trữ, bảo tồn các giống loài thủy sản, khu vực BBT đã xác định có 124 loài thực vật nổi, 61 loài động vật nổi, 18 loài động vật không xương sống cỡ lớn, 111 loài cá, trong đó có 6 loài quý hiếm và trong sách đỏ Việt Nam như: cá thát lát (Notopterus notopterus), cá hô (Catlocarpio siamensis), cá duồng (Cirrhinus microlepis), cá tra dầu (Pangasianodon gigas), cá mang rỗ (Toxotes chatareus) (Thái Ngọc Trí và ctv., 2012)..
- Trong những năm gần đây, nguồn lợi thủy sản trong búng ngày càng suy giảm do nhiều nguyên nhân như: quá trình bồi lấp tự nhiên, khai thác thủy sản quá mức của cộng đồng dân cư trong vùng.
- (Lương Thanh Nhựt Linh và Phạm Quốc Hùng, 2015), theo cư dân trong vùng thì ô nhiễm ngày càng trầm trọng, các loại chất thải từ các hoạt động trong khu vực được thải trực tiếp vào búng.
- Sinh kế của cư dân sống bằng nghề khai thác và nuôi trồng thủy sản thời gian gần đây bị ảnh hưởng nghiêm trọng do có hiện tượng cá chết hàng loạt khi gió mùa Đông Bắc thổi về và nước bốc mùa hôi khó chịu không rõ nguyên nhân..
- Do sinh kế từ nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng, nên người nuôi cá tăng cường khai thác nguồn lợi làm cho nguồn lợi và sinh thái vùng này có nguy cơ cạn kiệt.
- Vì vậy, việc nghiên cứu chất lượng nước trong khu vực BBT là cần thiết nhằm theo dõi chất lượng nước, tìm giải pháp cho việc cải thiện chất lượng nước giúp cho nghề nuôi cá lồng bè ở BBT phát triển và bảo tồn tính đa dạng sinh học trong khu vực được tốt hơn.
- Nghiên cứu bao gồm đánh giá sự biến động chất lượng nước, và xác định biên độ dao động mức nước theo thời gian và không gian làm cơ sở cho việc khai thác hiệu quả vùng này theo hướng bền vững..
- Thời gian từ tháng 1 đến tháng 12/2016, có 12 đợt thu mẫu với mỗi chu kỳ 1 lần /tháng.
- Mỗi đợt thu mẫu ở 3 khu vực theo mặt cắt ngang: đầu búng, giữa búng và cuối búng, mỗi khu vực thu 3 điểm, mỗi điểm thu 2 tầng nước, tầng mặt cách mặt nước 50 cm và tầng đáy cách nền đáy 50 cm, vì vậy có 18 mẫu thu cho mỗi đợt (Hình 1).
- Hình 1:Vị trí thu mẫu tại BBT.
- và coliform mẫu được phân tích ở phòng thí nghiệm phân tích chất lượng nước, Trường Đại học An Giang.
- Kiểm định ANOVA với độ tin cậy 95% để kiểm định sự khác biệt về chất lượng nước ở đầu búng, giữa búng và cuối búng, dùng phép kiểm định T-test để kiểm định sự khác biệt giữa chất lượng nước tầng mặt và tầng đáy..
- Các yếu tố môi trường như DO, NO 3.
- 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Độ sâu (m).
- Kết quả qua 12 đợt khảo sát ở (Hình 2) nơi sâu nhất tập trung ở cuối búng và cạn dần về phía đầu búng, do đầu búng là nơi tiếp nhận phù sa từ nước sông, phù sa lắng đọng, mức nước trong búng biến động theo thời gian, bắt đầu tăng dần theo mùa nước lũ của sông Mekong từ tháng 6 và cạn nhất tháng 2- 3 hàng năm.
- Tuy nhiên, độ sâu và diện tích của BBT hiện nay chưa thống nhất, theo Lê Công Quyền (2015) diện tích của BBT là 174 ha, mực nước trung bình khoảng 3,5 m và cao nhất khoảng 6 m vào mùa lũ.
- Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang (2012), diện tích là 200 ha mùa cạn và 800 ha mùa lũ, độ sâu trung bình của BBT là 4 m, chiều dài búng khoảng 2.900 m và chiều rộng trung bình là 430 m..
- Hình 2: Độ sâu của BBT qua 12 tháng thu mẫu 3.2 Nhiệt độ ( o C).
- Kết quả khảo sát nhiệt độ ở BBT (Bảng 1) cho thấy nhiệt độ ít biến động về không gian và thời gian.
- Nhiệt độ này thích hợp cho các loài thủy sinh vật phát triển, trong thực tế nhiệt độ có ảnh hưởng đến các quá trình sinh học, tốc độ các quá trình sẽ diễn ra nhanh hơn khi nhiệt độ cao, các loài thủy sinh vật thường phát triển tốt ở nhiệt độ từ 25-32 o C (Bộ Thủy sản, 2004)..
- Kết quả pH ở BBT (Bảng 2) cho thấy vùng này trung tính, theo qui chuẩn nước mặt QCVN 08:2015/BTNMT thì pH có giá trị từ 6,0-8,5 là thích hợp cho môi trường thủy sinh (cột A1).
- (2006), pH của nước mặt thường nằm trong khoảng 5-9, pH ở BBT có xu hướng tăng dần từ 6,6 – 7,3 năm 2008 lên 7,2-7,5 trong năm 2016 là dấu hiệu môi trường chuyển dần sang trung tính và kiềm, do vùng này đã phát triển hệ thống thủy lợi, khả năng rửa phèn ở vùng trũng ngày càng phát huy hiệu quả hơn để tăng vụ trong canh tác nông nghiệp, pH từ 7,3 – 8,3 là phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của thủy sinh vật (Thái Ngọc Trí và ctv.,.
- Tuy nhiên, trong môi trường nước ngọt, pH tăng trên 8 sẽ tăng tính độc amonia trong nước so với pH thấp hơn (Phạm Quốc Nguyên và ctv., 2014)..
- NO 2 - là sản phẩm của quá trình nitrate hóa và phản nitrate hóa, NO 2 - có khả năng gây độc cho thủy sinh vật ở nồng độ 0,1 mg/L (Nguyễn Đức Hội, 2000).
- Trong môi trường NO 2 - sẽ kết hợp với hemoglobine trong máu thủy sinh vật hình thành metheglobine làm giảm khả năng vận chuyển oxy đến tế bào (Bộ Thủy sản, 2004).
- Kết quả NO 2 - ở BBT tại Bảng 1 cho thấy NO 2 - luôn ở mức thấp và ổn định qua 12 đợt thu mẫu, kết quả cho thấy NO 2.
- ở mức này không gây ảnh hưởng đến đời sống thủy sinh vật, không có sự khác biệt về nồng độ NO 2 - giữa tầng mặt và tầng đáy (p>0,05), và cũng không có sự khác biệt về nồng độ NO 2 - ở 3 vị trí khác nhau trong búng (p>0,05), mặc dù NO 2 - ở các tháng mùa mưa cao hơn các tháng mùa khô nhưng sự khác biệt này không ý nghĩa (p>0,05).
- Theo Thái Ngọc Trí và ctv..
- (2011), N-NO 2 - ở BBT trong mùa mưa cao hơn mùa khô, NO 2 - có xu hướng tăng dần qua các năm, NO 2.
- trong khoảng mg/L là thích hợp cho đời sống thực vật thủy sinh vật (Thái Thị Nguyên, 2013)..
- Kết quả TAN ở BBT (Bảng 1) cho thấy TAN tăng cao vào tháng mùa khô, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa mùa mưa và mùa khô (p<0,05).
- Tuy nhiên, không có sự khác biệt về nồng độ TAN giữa đầu búng, giữa búng và cuối búng, giữa tầng mặt và tầng đáy (p>0,05).
- Theo QCVN 08-MT 2015/BTNMT, TAN trong môi trường cần thiết cho sự phát triển thủy sinh vật là 0,3 mg/L (Cột A1)..
- Trương Quốc Phú và Yang Yi (2005) thấy rằng TAN trong nuôi cá lồng bè trên sông Tiền là mg/L và cũng không có sự khác biệt giữa tầng mặt và tầng đáy.
- Thái Thị Nguyên (2013) thấy rằng hàm lượng TAN trong thủy vực luôn biến động theo thời gian không theo một qui luật rõ ràng và bị ảnh hưởng.
- Kết quả PO 4 3- ở BBT (Bảng 1) ở mức hợp lý, sự khác biệt giữa tầng mặt và tầng đáy không ý nghĩa (p>0,05), và cũng không có sự khác biệt giữa đầu búng, giữa búng và cuối búng (p>0,05).
- Theo thời gian thì PO 4 3- tăng vào mùa mưa và giảm vào mùa khô, Thái Thị Nguyên (2013) cũng thấy tương tự rằng PO 4 3- trên sông Hậu mg/L và có xu hướng giảm từ tháng 3 đến tháng 6 sau đó tăng dần từ tháng 7 đến tháng 1.
- PO 4 3- trong môi trường nước phần lớn bị hấp thu bởi phiêu sinh vật sống phù du và các loài động vật thuỷ sinh khác, khi chết động vật trả lại phospho cho môi trường (Lê Huy Bá, 2007)..
- Kết quả oxy hòa tan (DO) ở BBT qua 12 đợt thu mẫu (Hình 3) cho thấy oxy có sự biến động lớn theo thời gian, nhưng không khác biệt giữa các vị trí trong búng (p>0,05), giữa tầng mặt và tầng đáy (p>0,05)..
- Bảng 1: Các thông số môi trường thu được qua 12 đợt thu mẫu ở Búng Bình Thiên.
- Nhiệt độ ( o C) Mặt 29,6±0,8 a 29,9 ±0,9 a 30,4 ±0,9 a.
- Oxy hòa tan trong nước thích hợp là 5-7 mg/L, nó còn phụ thuộc vào nhiệt độ và các quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ và sự quang hợp của thực vật thuỷ sinh (Boyd, 1998.
- Theo QCVN 08-MT 2015/BTNMT (cột A1), oxy hòa tan cho sự phát triển thủy sản phải >.
- Ngoài ra, DO trong nước còn sử dụng để oxy hóa các chất hữu cơ như tiêu hao oxy hóa học và sinh học trong nước, DO trong thủy vực dao động từ 3-8 mg/L, nhỏ hơn 3 khi môi trường bị ô nhiễm (Bộ Thủy sản, 2004)..
- TSS ở BBT có sự biến động qua 12 đợt khảo sát (Hình 3) cho thấy hàm.
- lượng TSS tăng cao vào mùa khô và giảm dần vào mùa mưa.
- Tuy nhiên, TSS ở BBT không theo quy luật về mặt thời gian mà nó phụ thuộc vào vị trí thu mẫu.
- TSS ở đây chủ yếu là từ phiêu sinh thực vật, do nước trong BBT dòng chảy ít nên ít có sự xáo trộn từ nền đáy..
- Hình 3: Oxy hòa tan và TSS qua 12 đợt thu mẫu ở BBT Một số điểm khảo sát ở BBT có TSS cao hơn so.
- với tiêu chuẩn nước mặt (6-9 lần) và rải rác vào mùa mưa ở khu vực gần bờ, do nước mưa cuốn trôi bùn đất và vật chất hữu cơ hòa tan, chất keo từ trên cạn xuống làm xáo trộng nền đáy, vì độ cao của đê xung quanh BBT không đồng đều, nơi thấp (trũng) sẽ nhận nước mưa nhiều hơn và cuốn theo bùn đất từ trên cạn xuống theo nước mưa nhiều hơn làm TSS tăng cục bộ khu vực này.
- Theo tiêu chuẩn nước mặt QCVN 08-MT 2015/BTNMT (cột A1), hàm lượng TSS cho môi trường thủy sản là 20 mg/L.
- COD ở BBT có sự biến động qua 12 đợt khảo sát (Hình 4), nhìn chung COD có xu hướng giảm dần vào mùa mưa.
- Nếu COD <5 mg/L thì môi trường nghèo dinh dưỡng, 20-30mg/L thì giàu dinh dưỡng và >30 mg/L là môi trường ô nhiễm (Bộ Thủy sản, 2004).
- Theo tiêu chuẩn này thì BBT bị ô nhiễm vào các tháng mùa khô và mức độ ô nhiễm giảm dần khi có nước lũ về vào các tháng mùa mưa (Hình 4)..
- Hình 4: COD và BOD qua 12 đợt thu mẫu.
- Tuy nhiên, giá trị trung bình của một số chỉ tiêu môi trường (Hình 5) cho thấy không có sự biến động lớn về chất lượng môi trường về mặt không gian.
- giữa các vị trí trong BBT, điều này cho thấy mặc dù có sự biến động lớn về mức nước giữa các tháng mùa khô và mùa mưa (Hình 2)..
- Hình 5: Giá trị trung bình của một số chỉ tiêu môi trường qua 12 đợt thu mẫu ở BBT 3.10 BOD.
- BOD ở BBT có sự biến động qua 12 đợt khảo sát (Hình 4), BOD có xu hướng tăng ở cuối mùa mưa (tháng 12) cả ở tầng mặt và tầng đáy, nồng độ BOD ở BBT năm 2008 là 4 –8,2mg/L (Thái Ngọc Trí và ctv., 2011).
- Kết quả cho thấy coliform trong nước qua 12 tháng khảo sát ở BBT (Bảng 1) thấp hơn mức cho phép, nhưng có sự biến động lớn ở các tháng mùa khô so với các tháng mùa mưa.
- Theo TCVN 08-M 2015/BTNMT, coliform (cột A1) trong nước mặt cho phép trong môi trường thủy sinh vật là 2.500MPN/100 mL, coliform là nhóm vi khuẩn thường có trong hệ tiêu hóa của người.
- Điều đó chứng tỏ vùng này hiện đang là nơi chứa nước thải của cộng đồng nơi đây, điều này ảnh hưởng đến chất lượng nước ở BBT vào mùa khô, trong lúc nguồn nước ngọt trong búng đang bị hạn chế thì lại nhận lượng nước thải sinh hoạt và chăn nuôi..
- 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1 Kết luận.
- Chất lượng nước ở BBT có sự biến động theo thời gian nhưng nằm trong mức cho phép về chất lượng nước theo tiêu chuẩn Việt Nam, ngoại trừ nồng độ COD cao vượt mức cho phép vào các tháng mùa khô nhưng không có sự khác biệt về không gian trong búng..
- Sự xuất hiện của nhóm coliform vào mùa khô chứng tỏ BBT đang là nơi chứa chất thải từ sinh hoạt, chăn nuôi của cộng đồng địa phương..
- Cần có nghiên cứu cụ thể về nguyên nhân gây COD cao vào mùa khô..
- Nhóm tác giả xin chân thành cám ơn đề tài “Bảo tồn nguồn lợi thủy sản khu vực Búng Bình Thiên kết hợp phục vụ phát triển du lịch” của Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh An Giang là đơn vị chủ quản đề tài, Sở khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang là đơn vị tài trợ kinh phí đề tài.
- Nhóm tác giả cũng xin cảm ơn Trung tâm giống thủy sản An Giang đơn vị chủ nhiệm đề tài đã hỗ trợ tạo điều kiện về phương tiện, trang thiết bị, kinh phí thực hiện nghiên cứu này..
- Quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản.
- Sự phân bố phiêu sinh thực vật ở Búng Bình Thiên, An Giang, Tạp chí khoa học Đại học An Giang .
- Nước nuôi thuỷ sản chất lượng và giải pháp cải thiện chất lượng.
- Sinh thái môi trường đất.
- Hiện trạng khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản nội địa tại tỉnh An Giang.
- Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2: 47-49..
- Diễn biến một số chỉ tiêu chất lượng nước trong ao nuôi cá tra.
- Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ .
- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang, 2012..
- Báo cáo hiện trạng môi trường 5 năm tỉnh An Giang giai đoạn trang..
- Nghiên cứu sự đa dạng sinh học khu hệ cá ở vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên, tỉnh An Giang.
- Biến động chất lượng nước trên sông Hậu.
- Luận văn cao học, Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ, 70 trang..
- Ảnh hưởng của việc nuôi cá da trơn trong bè đến chất lượng nước ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
- Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ 3: 8-17.