« Home « Kết quả tìm kiếm

DẤU ẤN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT VIỆT


Tóm tắt Xem thử

- DẤU ẤN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT VIỆT.
- Người Pháp quyết tâm trụ lại trên đất Hà Nội từ cuộc viễn chinh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873.
- Sau khi chiếm được Hà Nội (ngày thực dân Pháp, trong vòng không đầy một tháng, lần lượt đánh chiếm các tỉnh vùng châu thổ sông Hồng: Hưng Yên ngày 23/11, Phủ Lý ngày 26/11, Hải Dương ngày 3/12, Ninh Bình ngày 5/12 và Nam Định ngày 12/12.
- Mặc dầu, ngày 21/12, quân dân Hà Nội đã đánh bại quân Pháp ở trận Cầu Giấy làm nức lòng quân dân ta trên cả nước và đẩy quân Pháp vào thế bị động, nhưng triều đình Huế vẫn trượt dài trên con đường thỏa hiệp, đầu hàng.
- Ngày triều đình Huế ký Hiệp ước mới với 22 điều khoản công nhận sự thống trị của Pháp trên miền Lục tỉnh, quyền đi lại, buôn bán, truyền đạo trên đất nước ta và đặc biệt cho phép người Pháp được quyền cư trú và đặt lãnh sự quán ở Hà Nội, Hải Phòng và Quy Nhơn.
- Từ tháng 1/1875 mới xác định được vùng đất nhượng là khu Đồn Thuỷ đến tháng 5 năm đó, một thỏa ước giữa Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc với phía Pháp mở rộng khu vực Đồn Thuỷ lên 18 ha, chạy dọc theo sông Hồng từ Viện Bảo tàng Lịch sử đến Bệnh viện Hữu nghị hiện nay.
- Tháng 10/1875, người Pháp khởi công xây dựng các công trình kiến trúc kiên cố trên khu nhượng địa theo bản thiết kế của sĩ quan công chính Varen như Tòa Lãnh sự được xây dựng theo phong cách cổ điển Paris, các tòa nhà hai tầng làm nơi ở cho sĩ quan, trụ sở chỉ huy quân sự, trại lính và kho tàng… Đó là những công trình kiến trúc đầu tiên mang dấu ấn văn minh Pháp hiện hữu trên mảnh đất Hà Nội mà bây giờ ta vẫn có thể thấy được trong khu Bệnh viện quân đội 108.
- Chính nơi này trở thành “vườn ươm văn hoá Pháp” tại Hà Nội..
- 19/7, Tổng thống Pháp đã ký Sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội và xếp thành phố Hà Nội vào đô thị loại I như Sài Gòn, Hải Phòng.
- Từ đó, đô thị Hà Nội xưa (gồm phần thành Hà Nội xây theo kiểu Vôbăng và phần thị với 36 phố phường bao quanh) để cho những tên thực dân và những kiến trúc sư Pháp, từ Liôtây qua Hêbra đến Xêruyti, nhào nặn.
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội..
- 666 DẤU ẤN VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT HÀ NỘI.
- thành Thủ phủ của Liên bang Đông Dương.
- Trong quá trình cải biến đó, buổi đầu người Pháp đã ứng xử thô bạo, thiếu văn hoá đối với di sản văn hoá Việt Nam trên mảnh đất nghìn năm văn hiến này.
- Cho đến năm 1894, họ đã phá gần hết thành Hà Nội.
- Doumer sang Hà Nội nhậm chức Toàn quyền Đông Dương.
- văn hoá truyền thống của Hà Nội nghìn năm văn hiến, mặt khác, chặn đứng quá trình.
- “nông thôn hoá” đô thị Hà Nội khi Hà Nội mất vai trò kinh sư của đất nước..
- Trong những năm nhào nặn Hà Nội thành Thủ phủ Liên bang Đông Dương nhằm tạo môi trường văn hoá xã hội thu hút vốn đầu tư và người Pháp sang làm ăn lâu dài, người Pháp đã để lại nơi đây những dấu ấn văn hoá của mình trên nhiều phương diện..
- Về quy hoạch thành phố.
- Theo các văn bản pháp quy của các cấp chính quyền thuộc địa, quá trình biến Trấn thành Hà Nội thành “Thủ đô của Bắc Kỳ”, “Thủ đô của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp” cũng là quá trình xác định, mở rộng địa giới hành chính Hà Nội được trải dài trên hai giai đoạn: Xác định ranh giới thành phố và mở rộng địa giới hành chính thành phố.
- Ở giai đoạn đầu, mở đầu bằng việc ngày Tổng trú sứ Trung - Bắc Kỳ Vial ký quyết định số 1 giao cho Khu Công chính Bắc Kỳ đo vẽ bản đồ thành phố Hà Nội.
- 14/9/1888, Quyền Tổng trú sứ Parreau ký Nghị định số 18 phân định ranh giới ban đầu của thành phố.
- Theo Nghị định này, thành phố Hà Nội lúc đó bắt đầu từ Sở Thuế (nay là Bảo tàng Cách mạng) qua bốt phía Bắc (nay thuộc phố Phó Đức Chính), đường Grand Bouddha (phố Quán Thánh), đường bao quanh thành Hà Nội, cửa Sơn Tây kéo dài đến đường Phủ Thanh Oai (phố Văn Miếu, một đoạn phố Quốc Tử Giám, một đoạn phố Tôn Đức Thắng), Pagode des Corbeaux (Văn Miếu - Quốc Tử Giám), chùa Sinh từ, đường Huế (phố Duy Tân, nay là phố Huế) đến đê sông Hồng, chỗ Khu nhượng địa (Khu Đồn Thuỷ).
- Một năm sau, tại phiên họp của Hội đồng thành phố Hà Nội ngày Đốc lý Hà Nội cho rằng “ranh giới hiện tại của Thành phố không được rõ ràng, khó nhận biết, khó.
- xác định về đất đai và đã bỏ ra ngoài thành phố một vài vùng buôn bán và công nghiệp”3..
- Vì thế, theo đề nghị của Hội đồng thành phố, ranh giới Thành phố được xác định lại theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ ký ngày là: phía đông giáp với dòng chảy sông Hồng.
- Ta có thể vẽ ranh giới Hà Nội theo Nghị định trên bắt đầu từ cột mốc số 1 ở làng Cổ Xá men theo bờ nam hồ Tây bao gồm cả đảo chùa Trấn Quốc, đến đường Hoàng Hoa Thám, qua Đại La tới Đại Cồ Việt đến phố Trần Khát Chân, ra phố Lò Lợn (nhà máy xay Lương Yên)..
- Ranh giới này từng được xem là ranh giới chính thức làm căn cứ pháp lý cho những lần mở rộng địa giới thành phố tiếp theo dưới chính quyền thuộc địa..
- Ở giai đoạn hai, giai đoạn mở rộng phạm vi thành phố bắt đầu từ năm 1895 mở rộng theo hướng đông - bắc đến ngày 1/1/1943 đưa các làng trong huyện Hoàn Long, các tổng.
- các tổng Dịch Vọng, Xuân Tảo, Phú Gia của phủ Hoài Đức vào thành phố Hà Nội..
- Người Pháp đã tiến hành quy hoạch thành phố theo lộ trình mở rộng không gian.
- Có thể chia quy hoạch thành phố theo 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 1875 đến.
- Nhưng nhìn chung, quy hoạch tổng thể mang tính thực dân đậm nét, được biểu hiện rõ trên thực tế bằng sự phân chia thành phố thành hai khu vực: khu vực sang trọng dành cho người Pháp và người Âu và khu vực tồi tàn dành cho người bản địa.
- Chẳng hạn như khu hành chính, từ đầu người Pháp đã xác định hai trung tâm hành chính - chính trị: khu phía đông hồ Hoàn Kiếm với vườn hoa Pôn Be (bây giờ là vườn hoa Lý Thái Tổ) làm trung tâm, mọc lên những tòa nhà theo phong cách kiến trúc Pháp như Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, Nhà Bưu điện trung tâm, Tòa Đốc lý Hà Nội, Khách sạn Mêtrôpôn, Ngân hàng Đông Dương… Trung tâm hành chính - chính trị thứ hai nằm ở phía Nam hồ Tây mà tâm điểm là Dinh Toàn quyền Đông Dương và các cơ quan trực thuộc, Sở Tài chính Đông Dương (bây giờ là Bộ Ngoại giao) được nối với trung tâm hồ Hoàn Kiếm bằng trục phố Paul Bert (bây giờ là phố Tràng Tiền và phố Hàng Khay.
- Về quy hoạch, đáng chú ý nhất là Nghị định số 8962 ngày 5/12/1942 của Toàn quyền Đông Dương phê chuẩn và công bố các quy định trong đồ án quy hoạch và mở rộng thành phố Hà Nội và vùng ngoại ô do Sở Quy hoạch đô thị và Kiến trúc Đông Dương lập.
- Theo quy định của Đồ án, thành phố Hà Nội được chia làm 11 khu mang ký hiệu từ A đến H: Khu A - khu biệt thự, khu B - khu thương mại, Khu C - khu biệt thự kiểu Việt Nam, khu D - khu nhà chia ô, khu E - khu buôn bán nhỏ theo kiểu Việt Nam, khu F - khu làng truyền thống của người Việt, khu G - khu dự phòng cho các mục đích hành chính công, khu H - khu công nghiệp.
- Trước năm 1920, các công trình kiến trúc chủ yếu như Phủ Thống sứ, Dinh Toàn quyền, nhà Bưu điện, khách sạn Mêtrôpôn, Nhà hát Thành phố… đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ điển Pháp.
- Liên quan tới đề tài, chúng tôi xin lấy Nhà hát Thành phố (Theatre municipal) làm thí dụ.
- Năm 1900, trong một phiên họp của Hội đồng thành phố đề xuất việc xây dựng một nhà hát mới ở thành phố Hà Nội.
- Tháng 12/1902, Toàn quyền Đông Dương cho Thành phố Hà Nội vay trước 100.000 đồng.
- 668 DẤU ẤN VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT HÀ NỘI.
- Đến năm 1911, công trình Nhà hát thành phố hoàn thành, sau đó là chỉnh trang công trình cho đến năm.
- Sau khi khánh thành, Nhà hát thành phố đêm đêm đỏ đèn đón khán giả tới xem các chương trình biểu diễn từ âm nhạc, ôpêra đến kịch nói, chủ yếu là người Âu và giới thượng lưu người Việt.
- Cùng với việc xây dựng các công trình kiến trúc tiêu biểu như trên đã nói, người Pháp còn xây dựng vườn Bách thảo, các quảng trường, các công viên, vườn hoa và các đài tưởng niệm mà đến bây giờ vẫn còn tác dụng.
- Phía bắc hồ Hoàn Kiếm là quảng trường Negrier (bây giờ là quảng trường Đông Kinh nghĩa thục), nơi đặt ga trung tâm của hệ thống tàu điện Hà Nội.
- Phía tây, từ trước vốn đã có tượng vua Lê do Hoàng Cao Khải xây năm 1894 nhưng đã xuống cấp theo thời gian, nên năm 1902, Đốc lý Hà Nội xin phép Thống sứ Bắc Kỳ được sửa chữa lại công trình này với khoản kinh phí 150 đồng lấy từ ngân sách Bắc Kỳ v.v….
- Tất cả những công trình kiến trúc đó tạo thành một di sản kiến trúc quý báu và trở.
- thành một bộ phận không thể thiếu trong lòng Hà Nội nghìn năm văn hiến..
- Vào lúc 8 giờ 30, ngày chuyến tàu đầu tiên khởi hành từ ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội hiện nay) đưa vua Thành Thái và Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer cùng đoàn tuỳ tùng tới đầu cầu, cắt băng khánh thành trước sự chứng kiến của hàng nghìn người dân Hà Nội và dân quanh vùng.
- Cùng với ga Hàng Cỏ, việc khánh thành cầu Paul Doumer đã biến Hà Nội thành trung tâm giao thông vận tải trên cả nước và trên toàn Liên bang.
- Nó liền đi vào ca dao của người Hà Nội chúng ta: “Hà Nội có cầu Long Biên / Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng”.
- Cùng năm đó, với Nghị định số 953, Toàn quyền Đông Dương chính thức cho phép khai thác tuyến đường tàu hỏa Hà Nội lên biên giới Việt -Trung và.
- Cầu Long Biên vốn là chiếc cầu dành cho đường sắt, nhưng đến đầu những năm 20 của thế kỷ trước, người Pháp đã mở rộng hai bên cầu cho xe cộ và người đi bộ.
- Tiếng leng keng tàu điện trở thành một loại âm thanh ký ức đối với người Hà Nội.
- Đáng tiếc là trong quá trình xây dựng, Hà Nội chúng ta không giữ được nó..
- Cũng như chợ lớn Bến Thành ở Sài Gòn, chợ lớn Đông Ba ở Huế, chợ Đồng Xuân ở Hà Nội đóng vai trò trung tâm buôn bán của một vùng rộng lớn, không chỉ của Bắc Kỳ, mà cả Bắc Đông Dương và vùng Hoa Nam, Trung Quốc.
- Trước khi người Pháp có mặt ở nước ta, các văn bản và sách của triều đình Huế phổ biến trong dân chúng đều qua kỹ thuật in bằng mộc bản.
- Người Pháp tới mang theo kỹ thuật in ấn mới, hiện đại - kỹ thuật in tipô, vào nước ta.
- Ta có thể hình dung, nếu súng đạn giúp người Pháp chiếm đất, thì kỹ thuật in ấn mới là phương tiện chủ yếu giúp người Pháp thực hiện cuộc xâm lăng văn hoá, chinh phục con người Việt Nam..
- Scheneider đóng vai trò thực sự to lớn, không chỉ ở Sài Gòn với việc bao thầu phần lớn việc xuất bản các tờ báo chính, mà cả ở Hà Nội.
- 670 DẤU ẤN VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT HÀ NỘI.
- một nhận xét: “Những người Pháp xa Bắc Kỳ sáu, bảy năm nay quay trở lại sẽ thấy một sự thay đổi lớn.
- Một trong những nhà in khá nhất ở Hà Nội là của một người Việt Nam” (do P.X viết nghiêng để nhấn mạnh).
- Khi phần lớn nhà in nằm trong tay người Việt, đặc biệt năm 1926 xuất hiện một nhà xuất bản do một nhà yêu nước Việt Nam chủ trương - Nam Đồng thư xã của Phạm Tuấn Tài thì phương tiện này rẽ theo một hướng khác, không như người Pháp mong muốn.
- Báo chí Hà Nội thời này như Thực Nghiệp dân báo, Khai hoá nhật báo, Hữu Thanh tạp chí không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của tư sản dân tộc, mà còn hòa chung vào phong trào dân tộc sôi nổi trên cả nước thời đó như Phong trào tẩy chay khách trú (1919), Phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu (1925), Phong trào truy điệu Phan Chu Trinh (1926)… Từ các phong trào đó đã sản sinh ra một lớp những “chàng trai bãi khoá” gia nhập các tổ chức cách mạng vừa mới được thành lập như Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Hội Phục Việt.
- Thay đổi ứng xử đối với di sản văn hoá Hà Nội.
- Do vậy, nhiều công trình lịch sử, trong đó có những di tích thuộc về văn hoá tâm linh bị xâm hại trong quá trình xây dựng và mở rộng thành phố Hà Nội.
- Và cũng chính ông, trong nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương đã ban bố hai nghị định (9/3/1900 và về xếp hạng và bảo tồn các công trình lịch sử của thành phố Hà Nội.
- Vào thời điểm đó, tại Hà Nội đã xếp hạng 7 công trình là Văn Miếu - Quốc Tử Giám, đền Quán Thánh, đền Ngọc.
- Để đưa Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào sâu trong cuộc sống, tháng 6/1905, Đốc lý Hà Nội đã tổ chức một cuộc tổng điều tra về tình hình đất đai và thờ cúng của tất cả các công trình tín ngưỡng của Hà Nội.
- Hiệp lý Thành phố là Bùi Bành cùng với tất cả các Phố trưởng tham gia vào quá trình đó.
- Theo số liệu của cuộc tổng điều tra, lúc đó ở Hà Nội còn khoảng 400 đình, đền, chùa, miếu….
- việc bảo quản và giữ gìn các công trình lịch sử của các nước Đông Dương thuộc Pháp”..
- Từ đây, dưới sự tư vấn của Trường Viễn Đông Bác cổ, Hội đồng thành phố tiến hành xếp hạng và quản lý các công trình lịch sử, bao gồm cả những công trình văn hoá tâm linh.
- Với sự tư vấn của Trường Viễn Đông Bác cổ, Sở Quốc gia bảo tồn cổ tích và của Hội đồng Thành phố, ngày Đốc lý Hà Nội đã cho nghiên cứu Dự thảo về quản lý và sử dụng các công trình tín ngưỡng ở Hà Nội gồm 7 điều, nhưng không được ban hành vì.
- Nhận thức được điều đó, ngày Đốc lý Hà Nội đã soạn thảo lại nghị định gồm 2 điều quy định việc quản lý các đình, chùa thuộc quyền sở hữu công cộng của Thành phố và trình lên Thống sứ Bắc Kỳ.
- Thực hiện Nghị định đó, đầu năm 1928, Đốc lý Hà Nội đã chỉ thị cho các Phố trưởng tổ chức bầu các Hội đồng quản lý trông nom việc thờ cúng tại các công trình tín ngưỡng thuộc địa phương mình và lập danh sách các thủ từ trình lên Đốc lý.
- Do vậy mà ngày Đốc lý Hà Nội đã ký một loạt những quyết định thành lập Hội đồng quản lý các chùa Bà Đá, Tả Khánh, Bảo Khánh, Đông Hương, Khánh Thụy và đền Thuận Mỹ..
- Không dừng lại ở đó, đến năm 1934, Hội đồng thành phố đã với tay tới các công trình tín ngưỡng thuộc sở hữu tư nhân bằng Quyết định triệu tập một Ban gồm 13 thành viên dưới sự chủ toạ của Đốc lý họp và lập một danh sách những công trình chưa được xếp hạng.
- Theo đó, chính quyền thành phố qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông báo cho các chủ sở hữu về thời gian trình lên Hội đồng thành phố những giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của mình, nếu không Thành phố sẽ sung công vào mục đích công của thành phố nhằm ngăn chặn sự lạm dụng tôn giáo và đưa việc quản lý đình, chùa.
- Từ năm 1937 trở về sau, được phép của Toàn quyền Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ và tư vấn của Trường Viễn Đông Bác cổ, Đốc lý ra những quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng của một số công trình tín ngưỡng của Hà Nội do yêu cầu quy hoạch thành phố hoặc do yêu cầu mở rộng hay chỉnh lại hướng các đường phố..
- Rõ ràng, sau một thời kỳ đối xử không văn hoá đối với các loại di sản văn hoá của người Việt chúng ta, bắt đầu từ Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, đã làm được nhiều việc để bảo tồn và lưu giữ lâu dài các di sản văn hoá ở Hà Nội.
- Trước khi người Pháp chính thức hiện diện trên mảnh đất văn hiến này vào tháng.
- 10/1875, Hà Nội đã trải qua những cuộc bể dâu ghê gớm: từ vị trí kinh đô Thăng Long của nước Đại Việt trong suốt 800 năm, đến triều Nguyễn bị hạ xuống tỉnh thành, rồi Trấn thành, Hà Nội đang đứng trước ngưỡng cửa “nông thôn hoá”.
- Người Pháp tới trong chừng mực nào đó đã chặn đứng được làn sóng suy thoái của Hà Nội bằng quyết tâm biến nơi đây thành Thủ phủ Liên bang Đông Dương.
- Hà Nội được sống lại với một diện mạo mới, một kích cỡ mới.
- Bên cạnh giữ lại một phần thành Vô băng dưới thời Nguyễn và 36 phố phương xưa, người Pháp đã tạo ra một Hà Nội hiện đại hoá theo kiểu đô thị phương Tây.
- Hà Nội được mở rộng ra trên bốn hướng, dân cư đông đúc hơn.
- Cho đến năm 1928, Hà Nội là nơi cư trú của 126.137 người, gồm nhiều cộng đồng người khác nhau, đông nhất là người Việt – 118.327 người, rồi đến cộng đồng người Hoa - 4.428 người, người Pháp.
- 672 DẤU ẤN VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT HÀ NỘI.
- Từ khi người Pháp xây Lãnh sự quán trên đất Hà thành cho đến khi người Pháp rời bỏ mảnh đất này bởi cuộc đảo chính của phát xít Nhật có độ dài trọn 70 năm.
- Mấy mươi vạn người Hà Nội đã đắp đổi gần 4 thế hệ, nếu chúng ta tính một thế hệ là 20 năm.
- Người Hà Nội trải qua 4 thế hệ đó đã tạo ra một lối sống mới, tôi gọi là lối sống thị dân, khác xa với lối sống nông dân.
- Một hình ảnh thường thấy ở Hà Nội hoặc ở bất kỳ một thành phố lớn nào khác là người Hà Nội, sau bữa sáng, thường ngồi nhâm nhi tách cà phê nóng và lật xem những trang báo mới ra, tìm những thông tin cần thiết cho công việc của mình..
- Trong toàn bộ di sản văn hoá Thăng Long - Hà Nội nghìn năm có một phần di sản văn hoá người Pháp để lại cho chúng ta.
- Cái tư tưởng chủ đạo của họ là biến Hà Nội thành điểm đến hấp dẫn để gọi vốn đầu tư của tư bản Pháp và “trói chân” họ lâu dài trên mảnh đất này.
- Dẫu sao, trong quá trình tước đoạt, người Pháp để lại những dấu ấn văn hoá quý giá và chúng ta cần phải trân trọng lưu giữ nó, bởi đó, suy cho cùng, là một bộ phận hợp thành trong di.
- sản văn hoá của nhân loại..
- Fonds de la Mairie de Hanoi avant 1945 (MHN), Phông Toà Đốc lý Hà Nội trước năm 1945.