« Home « Kết quả tìm kiếm

Di văn Hán Nôm và việc tái lập lịch sử đình An Bình xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long


Tóm tắt Xem thử

- DI VĂN HÁN NÔM VÀ VIỆC TÁI LẬP LỊCH SỬ ĐÌNH AN BÌNH XÃ AN BÌNH, HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG.
- Đình An Bình, lịch sử đình An Bình, di văn Hán Nôm đình An Bình.
- An Binh temple located in An Binh island of Long Ho district (Vinh Long province) is one of five legend temples which stored many Han-Nom archives showing An Bình residents’ process of building their hamlet and village.
- Đình An Bình tọa lạc tại cù lao An Bình 1 , huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long là một trong số năm tự tích 2 còn lưu lại rất nhiều di văn Hán Nôm cho thấy công cuộc dựng làng lập ấp của cư dân An Bình.
- Qua khảo sát thực tế, những di văn này đang đứng trước nguy cơ bị hủy hoại do nhiều nguyên nhân khác nhau, càng xót xa hơn khi được biết lai lịch của đình An Bình cơ hồ đã “an nghỉ” theo các bậc lão niên ngày nào.
- Từ di văn thu thập được, bài viết xin tái lập lại lịch sử đình An Bình, phần nào khỏa lấp những khoảng trống trong tâm thức tín ngưỡng của người Việt tại vùng đất Bích Trân 3 vang dấu một thời..
- Di văn Hán Nôm và việc tái lập lịch sử đình An Bình xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
- 1 Năm 1944, Pháp sáp nhập hai thôn An Thành và Bình Lương lại thành xã An Bình.
- Địa danh An Bình tồn tại đến ngày hôm nay.
- Về mặt hành chánh, xã An Bình từng thuộc nhiều đơn vị quận, huyện và tỉnh khác nhau.
- Trước kia An Bình thuộc quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long.
- sau đó lại trực thuộc quận Nhất, quận Nhì, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long;.
- Từ năm 1992, xã An Bình thuộc huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long..
- 2 Đó là đình Bình Lương, đình Hòa Ninh, đình Phước Định, đình An Bình và chùa Tiên Châu..
- Nơi này làm cồn cát bảo vệ cho sông Long Hồ, hai bên khép lại như cái vạt áo, quanh vòng ôm lấy hai thôn Bình Lương và An Thành”.
- Từ thuở ngôi đình “thiên di” theo bước chân nam tiến của cư dân Bắc và Trung, ngôi đình nghiễm nhiên trở thành điểm tựa tâm linh và là “bộ mặt” cho người dân trên những vùng đất mới.
- Cùng nằm trong quy luật đó, đình An Bình ngày nay tọa lạc tại ấp An Thành, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long cũng là một trong những ngôi tự tích minh chứng sự phát triển của vùng đất Định Viễn trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Đình An Bình từ khi còn là mái lá, tường cây đến hôm nay khi được xây dựng kiên cố cho thấy sự quan tâm của hậu thế đối với công lao tạo dựng của các bậc tiền nhân..
- Giai đoạn những năm đình An Bình đối mặt với kiếp nạn “chuyển thân” từ đình thờ thần sang trường dạy học.
- Và thần Thành hoàng đình An Bình buộc phải trú ngụ ở một góc nhỏ hẹp trong chính “giang sơn” của mình.
- Đến đây lai lịch của đình An Bình bị “hút” theo chuyển biến của xã An Bình.
- Sự bù đắp chỉ còn trông mong vào các bậc cao niên một đời gắn bó với làng, thế nhưng các vị phần vì tuổi cao, phần vì bệnh già nên hầu như không nhớ gì về lịch sử của ngôi đình.
- Dù vậy, với những thông tin quý hiếm của các vị cùng sự giúp đỡ của Ban Quản lý đình hiện tại và người dân địa phương, chúng tôi tiến hành sưu tầm và nghiên cứu những di văn Hán Nôm ở đình, nhằm góp phần bổ trợ thêm cho lịch sử đình An Bình..
- 2.1 Hiện trạng di văn Hán Nôm ở đình An Bình Từ thực tế khảo sát, đình An Bình còn lưu giữ được số lượng tương đối tư liệu Hán Nôm có giá trị không những về mặt ngôn từ mà còn là tư liệu hiếm hoi về lịch sử của đình.
- Hiện nay, đình An Bình còn giữ được các di văn Hán Nôm thuộc các chủng loại với số lượng cụ thể như sau:.
- TT Chủng loại tư liệu Hán Nôm Số lượng.
- 1 Hoành phi 5.
- 2 Câu đối 8.
- 3 Sắc phong 1.
- 4 Bài vị 5.
- Trong tổng số 8 cặp câu đối có 5 cặp chạm khắc trên chất liệu gỗ, 3 cặp sử dụng chất liệu bê tông 4 .
- Qua khảo sát, các cặp câu đối chúng tôi ký hiệu đ3a - b, đ4a - b, đ6a - b trình bày kiểu chữ Chân, chạm nổi rõ đẹp dễ đọc, được trang trí họa tiết dây leo.
- Các cặp câu đối ký hiệu đ2a - b, đ5a - b kiểu chữ Chân khắc chìm, dễ đọc, trang trí họa tiết hoa lá trên đầu mỗi câu đối.
- Các bức hoành phi cũng dùng lối chữ Chân được thể hiện trên chất liệu gỗ, trang trí hoa văn dây leo uốn lượn, khoảng giữa điểm tô hình con dơi 5 , trong lòng hoành phi có họa tiết hình chữ 卍vạn đan xen nhau..
- Đình An Bình còn giữ gần như nguyên vẹn đạo sắc phong ban cho Thành hoàng bổn cảnh.
- Được các vị trong Ban tế tự cho biết thêm về quy trình cất sắc, chúng tôi thấy trước tiên sắc phong được gấp lại làm 8 sau mới cuộn tròn và bao thêm một lớp vải màu đỏ rồi cho vào ống đựng sắc.
- Qua dòng niên đại trên văn bản cho biết tờ sắc được ban vào ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức 5 (1852)..
- Trong số 5 bài vị kể trên, có 1 bài vị thờ con người có thực ở làng bấy giờ là ông Lê Nghĩa, 1 bài vị là bức đại tự.
- 4 Cặp câu đối ở bàn thờ Hương chức vãng tiền chúng tôi ký hiệu là đ7a - b là câu đối chúc tụng..
- Cặp câu đối ở bàn thờ Hậu hiền chúng tôi ký hiệu là đ8a - b là lời dặn dò, nhắc nhở con cháu đời sau..
- Vì 2 cặp câu đối này mới được người đời sau kiến tạo, không có các dòng lạc khoản nên trong bài viết này chúng tôi không giới thiệu..
- chữ 神Thần, 1 bài vị 左班Tả ban, 1 bài vị 右班 Hữu ban và 1 bài vị ghi các vị Thành hoàng 6.
- Các di văn trên là minh chứng thời gian cho quá trình thành lập và phát triển của đình An Bình, đồng thời ghi nhận sức sống ngầm của những giá trị văn hoá được người dân sở tại bảo vệ trước biến đổi thời cuộc.
- Đến nay, dù đình đã không còn giữ vai trò chi phối sinh hoạt đời sống cư dân An Bình như xưa, nhưng đình An Bình vẫn là nơi đảm bảo tâm thức tín ngưỡng và phong tục tế lễ của địa phương..
- 2.2 Lịch sử đình An Bình qua tư liệu di văn hiện còn tại đình.
- Đình An Bình hiện nay lưu giữ một bức hoành phi đề安城亭An Thành đình và ba cặp câu đối khoán thủ cho thấy danh tự của đình là An Thành, cụ thể như sau:.
- 6 Cụ thể bài vị ghi: 都大城隍大王尊神,梁佞城隍大王 尊神,文慶城隍大王尊神,麻緊城隍大王尊神之位 Đô Đại Thành hoàng Đại vương tôn thần, Lương Nịnh Thành hoàng Đại vương tôn thần, Văn Khánh Thành hoàng Đại vương tôn thần, Ma Khẩn Thành hoàng Đại vương tôn thần chi vị..
- 城隆民會老幼共沐神麻 9 Ký hiệu: đ5a - b An vĩnh hương tề nam phụ hàm ca đế lực, Thành long dân hội lão ấu cộng mộc thần ma Ngoài ra, ở khu vực chánh tẩm xuất hiện cặp câu đối nhắc đến danh tự An Thành nhưng không làm theo lối khoán thủ, với nội dung:.
- Đặc biệt trong đạo sắc phong ban cho thần Thành hoàng bổn cảnh năm 1852, vua Tự Đức đã phê chuẩn việc tiếp tục thờ tự thần là dân của thôn An Thành huyện Vĩnh Bình 11 .
- Văn bản pháp lý này trực tiếp công nhận tên chính thức cơ sở thờ tự cũng như đơn vị hành chính của huyện Long Hồ xưa là thôn An Thành thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh năm 1808.
- Theo đó nâng ba tổng Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An thành huyện.
- Thôn An Thành thuộc về tổng Vĩnh Trường..
- 12 Phiên âm: Sắc Bổn cảnh Thành Hoàng chi thần nguyên tặng Quảng hậu Chính trực Hựu thiện chi thần hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng.
- Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng chi thần, nhưng chuẩn Vĩnh Bình huyện, An Thành thôn y cựu phụng sự.
- Sắc cho thần Thành Hoàng bổn cảnh nguyên tặng là Quảng hậu Chính trực Hựu thiện chi thần giúp nước yên dân, linh ứng đã lâu.
- Ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức 5..
- Qua nguồn tư liệu trên, xác thực tiền thân của đình An Bình là đình An Thành.
- Đến đây, phần nào đã bổ sung cho dữ kiện năm 1944, khi Pháp sát nhập hai thôn An Thành và Bình Lương lại thành địa danh xã An Bình, tồn tại đến ngày nay.
- Tuy nhiên, theo tính chất tương ứng và quy luật “hợp thời” để tồn tại, người dân sở tại tiến hành đổi tên đình từ đình An Thành sang đình An Bình.
- Điều này góp phần lý giải cho sự xuất hiện của cặp câu đối khoán thủ danh tự An Bình ở cổng đình như hiện nay:.
- 2.2.2 Quá trình thành lập và phát triển Từ mốc thời gian thành lập thôn An Thành và sự chứng nhận hợp pháp của vua Tự Đức chứng tỏ đình An Thành phải được thành lập sau năm 1808 14 và trước năm 1852.
- Dựa vào số lượng mỹ tự của lần gia tặng này là廣厚正直佑善敦凝Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng 15 , cho thấy vị thần Thành hoàng của thôn An Bình được ban sắc tổng cộng bốn lần, tuy nhiên các sắc ban của ba lần trước đều không còn.
- Từ khảo cứu này kết hợp với việc khảo sát một số văn bản sắc phong ban cho thần Thành hoàng vào niên hiệu Tự Đức còn lưu.
- Ban đầu ngôi đình được xây dựng khá đơn sơ, sau này chức sắc thôn An Thành góp công góp của tạo dựng thêm..
- lại ở các thôn làng thuộc tỉnh Vĩnh Long hiện nay cho thấy, hầu hết sắc phong đều được ban vào năm Tự Đức 5 16 với cùng mỹ tự như Thành hoàng đình An Thành là các đình Long Thanh, đình Kỳ Hà, đình An Hương, đình Tân Hoa, đình Tân Giai, đình Bình Phước, đình Tân Mỹ… nên chúng tôi không thể xác định chính xác về năm thành lập đình mà chỉ dừng lại ở sự phỏng đoán có căn cứ..
- Nguồn tin dân gian cho hay, đình An Thành buổi đầu được xây ở đầu cồn nhà ông Sáu Nhang nay thuộc xã An Thới, do bờ sông bị sạt lỡ và con rạch bị cạn dần không còn thuận tiện cho khách đến hành hương lễ bái nên đến năm 1921, người dân dời đình An Thành về vị trí như hiện nay.
- Trên bài vị của ông cho biết, ông từng giữ chức Cai tổng của tổng Bình Hưng, được ban tặng hiệu Phủ quân.
- Kể từ đây đình An Thành bắt đầu được tạo dựng với kết cấu và nền móng chắc chắn.
- Sau đợt di dời này, nhiều hoành phi, câu đối và vật dụng thờ tự được tiến cúng vào đình..
- Các bức hoành phi, câu đối ở đình An Bình hiện còn ngoài công năng tỏ rõ uy linh, sự bảo trợ của cõi thiêng đối với cõi tục cùng triết lý uống nước nhớ nguồn của người dân sở tại, còn hàm chứa thông tin lịch sử vô cùng quan trọng về mốc thời gian kiến tạo đình với những con người góp sức tạo nên sự bề thế của ngôi đình trên những dòng lạc khoản.
- Qua khảo cứu trong tổng số 8 cặp câu đối và 5 bức hoành phi, chúng tôi ghi nhận có tổng cộng 8 lạc khoản..
- Dựa vào họa tiết trên bức đại tự chữ 神Thần, hoành phi 安城亭An Thành đình và cặp câu đối Ký hiệu đ6a - b ở khánh thờ:.
- Bức hoành phi đại tự: 安城亭 với dòng lạc khoản ghi: 龍飛[…]辰年季春中浣正拜 阮惟清奉供 19 Trung tuần tháng Quý xuân năm.
- Thìn niên hiệu Long Phi, Chánh bái Nguyễn Duy Thanh phụng cúng, mốc thời gian […]辰年đưa chúng tôi đến nhận định năm Thìn ở đây có thể là năm 1880 và chữ.
- bị mất ở đây là chữ 庚Canh, so với mốc thời gian sử dụng niên hiệu Long Phi 20 .
- Theo đó dòng lạc khoản ở cặp câu đối đ6a - b cho.
- Lập buổi sáng đẹp trời tháng Mạnh xuân năm Giáp Thân, Phó quản Vĩnh Long là Đặng Văn Bảo kính cẩn cúng thì năm Giáp Thân nói trên hẳn là năm 1884..
- Từ hai dữ kiện này có thể xác định ít ra bức hoành phi tên đình An Thành phải xuất hiện cùng lúc với bức đại tự chữ Thần, nghĩa là đình An Thành bấy giờ được người dân quan tâm đầu tư hơn với ban thờ Thần để người dân cầu cúng và định hình tên cơ sở thờ tự.
- Bốn năm sau, vị Phó quản Đặng Văn Bảo mới cúng thêm cặp câu đối kể trên..
- Theo luận thuyết này, cặp câu đối đ3a - b do Hương cả Phan Ngọc Nhuận cúng và cặp câu đối đ4a - b do Hương chủ Phan Ngọc Chấn cúng cho biết thêm việc kiến tạo ngôi đình vào đầu thế kỷ XX, năm Bính Ngọ 1906: 龍飛丙午年廟宇建造 Miếu mạo kiến tạo năm Bính Ngọ niên hiệu Long Phi lạc khoản câu đối 3a - b, 龍飛丙午年二十七.
- 20 Niên hiệu Long Phi là một thuật ngữ ghi niên đại câu đối xuất hiện từ thời nhà Nguyễn.
- Cách ghi này xuất hiện trên câu đối ở miền Nam tương đối muộn hơn..
- 21 Phiên âm: Giáp Thân niên Mạnh xuân cát đán lập, Vĩnh Long Phó quản Đặng Văn Bảo kính phụng..
- 日建造題 Đề vào ngày kiến tạo là ngày 27 năm Bính Ngọ niên hiệu Long Phi lạc khoản câu đối 4a - b..
- Cứ thế đến năm Kỷ Dậu 1909 cặp câu đối 2a - b của đình được khắc tạo龍飛己酉年仲夏月題 Đề tháng Trọng hạ năm Kỷ Dậu niên hiệu Long Phi..
- Đặc biệt cùng thời gian này, người dân ở thôn Bình Lương là Trần Khắc Hài đã tiến cúng bức hoành phi神恩惠澤 Thần ân huệ trạch chính thức vào 龍 飛己酉仲夏造 Tạo tháng Trọng hạ năm Kỷ Dậu niên hiệu Long Phi đến đình An Thành..
- Tiếp theo đến năm Quý Hợi 1923, ông Nguyễn Phi Cần phụng cúng bức hoành phi庙宇弘開 Miếu vũ hoằng khai 22 .
- năm Kỷ Tỵ 1929 23 người dân An Thành thiết trí hai bức hoành phi 國泰Quốc thới, 民安Dân an..
- Đình An Thành được xây mới vững chắc là một sự kiện lớn vừa đánh dấu sự phát triển ổn định của dân An Thành sau này, vừa tạo nên điểm tựa để ổn định tâm thức tín ngưỡng của dân trong vùng.
- Vì thế, người dân không ngại tốn kém bỏ ra rất nhiều tiền chạm trổ trang trí cho khu thờ tự..
- Trên thực tế đình An Thành chắc hẳn còn rất nhiều di văn Hán Nôm khác song do trong quá trình di dời, kiến tạo mới nên một số hoành phi, câu đối, bài vị… bị thất lạc, số khác bị trộm cắp và bị “chuyển thân” theo chuyển biến những năm như đã nói.
- Số ít hoành phi, câu đối chúng tôi ghi nhận được, được người dân mang gửi ở đình Bình Lương nên tồn tại đến nay.
- Nhìn những di vật, di văn được sơn son thếp vàng rực rỡ của đình An Bình hiện nay khó ai có thể biết được chúng đã “chật vật” đến với hiện tại như thế nào để lưu giữ lịch sử văn hóa cho người dân An Bình ngày nay..
- 23 Riêng năm 1929 được khắc trực tiếp trên hai bức hoành phi này, dòng lạc khoản ghi niên đại 己巳之年 Kỷ Tỵ chi niên (năm Kỷ Tỵ) ở bên phải và dòng 安城村 新造 An Thành thôn tân tạo (thôn An Thành mới lập) ở bên trái..
- Đình An Bình vẫn đứng đấy cùng năm tháng nhưng nhân sinh quan đả phá phong kiến một thời của các bậc cao niên hữu trách tại đình cùng những bước đi vội vã vào tương lai khiến cho đình An Bình xưa đã không còn được bình an như danh tự vốn có..
- Chuyển biến xã hội theo hướng công nghiệp hóa buộc nhiều di vật của đình An Bình phải nhường chỗ cho hiện tượng bê tông hóa của người đương đại.
- Các di vật này bị vứt lăn ở bụi cây, thậm chí còn bị người dân “chẻ” làm củi đốt… Qua chuyến điền dã, chúng tôi không khỏi nhói lòng về thực trạng biến đổi văn hóa nơi chúng tôi được sinh ra và là một phần của lịch sử..
- Các di văn Hán Nôm hiện còn tại đình An Bình là chứng nhân một thời vàng son rực rỡ của đình..
- Qua đây cho thấy tinh hoa trí tuệ của người An Bình nói riêng và người Vĩnh Long nói chung trong quá khứ..
- Với cố gắng góp nhặt di văn còn lại, lai lịch của đình An Bình cũng được hé mở ít nhiều, đáp ứng cho nhu cầu về nguồn, giữ gìn văn hóa hiện nay..
- Theo đó, việc tu bổ đình rất cần sự quan tâm của các cấp chính quyền, sự chung tay gìn giữ của người dân địa phương, nhất là phải phối hợp với giới chuyên môn để đảm bảo tính chân xác của lịch sử