« Home « Kết quả tìm kiếm

Điều tra và đánh giá ảnh hưởng paclobutrazol đến sinh trưởng và năng suất lúa IR 50404


Tóm tắt Xem thử

- ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG PACLOBUTRAZOL ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA IR 50404.
- Chống đổ ngã và tăng số lượng chồi cho cây lúa là cách mà nông dân sử dụng Paclobutrazol (PBZ) lâu nay.
- Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên với bốn nghiệm thức (T1- Đối chứng: 0 kg PBZ / ha, T2: 1,0 kg PBZ / ha, T3: 1,5 kg PBZ / ha, T4: 3,0 kg PBZ / ha) và bốn lần lặp lại.
- Kết quả điều tra nông dân đã sử dụng PBZ, kết hợp với phân bón để bón vào hai giai đoạn lúa 20 đến 25 ngày sau sạ.
- Xử lý PBZ ở nghiệm thức T2 và T3 giúp giảm chiều cao cây lúa, tăng số chồi trên đơn vị diện tích nhưng không làm tăng năng suất lúa.
- Các nghiệm thức xử lý đều để lại tồn lưu PBZ trên thân (T1: 60 µg, T2: 2.220 µg, T3: 1.090 µg, T4: 34 µg) và trên hạt lúa (T1: 104 µg, T2: 550 µg, T3: 110 µg, T4: 0 µg) và trong đất sau thí nghiệm (T1: 16,3 µg, T2: 24,0 µg, T3: 9,90 µg, T4: 6,60 µg)..
- Điều tra và đánh giá ảnh hưởng paclobutrazol đến sinh trưởng và năng suất lúa IR 50404.
- Để khắc phục được tình trạng đổ ngã trên cây lúa, một số biện pháp được nông dân sử dụng phổ biến như: sử dụng giống kháng đổ ngã, tháo nước giữa vụ, bón phân đúng cách,….Bên cạnh đó, sử dụng chất điều hoà sinh trưởng được cho là một trong những kỹ thuật canh tác quan trọng để tăng năng suất lúa mà còn hạn chế đổ ngã.
- Việc sử dụng PBZ trên đồng ruộng cũng được xem là biện pháp hạn chế đổ ngã và tăng năng suất lúa khi phun ở PBZ ở giai đoạn cuối tăng trưởng của lúa làm tăng tỷ lệ hạt chắc do quá trình lão hóa lá bị trì hoãn (Zhang et al., 2007)..
- Chính vì vậy, không ít nông dân sử dụng PBZ phun vào giai đoạn mạ và đẻ nhánh với mục đích giúp cây lúa cứng cây, nở bụi, chống đổ ngã, đặc biệt là các vùng canh tác lúa ba vụ trong một năm..
- Tuy nhiên, việc sử dụng PBZ của người dân một cách mất kiểm soát dẫn đến lạm dụng PBZ đã làm gia tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến môi trường và sức khoẻ của người trồng lúa và người tiêu dùng.
- Theo Jacyna and Dodds (1995) khi xử lý PBZ trên vườn xoài, phía dưới khu vực tán lá cách thân cây 1,5 m có thể sẽ hấp thu và lưu tồn PBZ trong thân cây và trong đất.
- Từ đó, dư lượng PBZ trong đất sẽ ảnh hưởng sang môi trường nước và gián tiếp sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và động vật.
- Ngoài ra, sự tồn tại liên tục của PBZ trong đất cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống vi sinh vật đất.
- Theo Silva et al., (2003) xử lý PBZ trên vườn xoài làm giảm 58%.
- Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng của PBZ trong đất, cũng như dư lượng của PBZ trong cây là rất quan trọng và cần thiết.
- Điều tra nông dân được tiến hành tại xã Hòa Bình Thạnh và xã Vĩnh Lợi thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang để hiểu được hiện trạng sử dụng, liều lượng sử dụng PBZ ở các mùa vụ và năng suất lúa.
- Phần mềm Excel được sử dụng trong nhập liệu, tổng hợp số liệu và phân tích..
- Thí nghiệm đánh giá sự lưu tồn PBZ trong đất và tích lũy PBZ trong thân và hạt được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên, với bốn nghiệm thức bón PBZ (T1-Đối chứng: 0 kg PBZ /ha, T2: 1,0 kg PBZ/ha, T3: 1,5 kg PBZ/ha, T4: 3,0 kg PBZ/ha) và bốn lần lặp lại.
- Nghiệm thức T1 không sử dụng PBZ (đối chứng), T2 phun PBZ trên lá 22 NSS và 42 NSS (100 g/1000 m 2 ),T3 trộn PBZ với phân rải giai đoạn 22 NSS, T4 trộn PBZ với phân rãi 22 NSS và 42 NSS (mỗi đợt 150g/1000m 2.
- Mẫu đất được thu tại năm điểm trên hai đường chéo góc của mỗi nghiệm thức ở độ sâu 0 - 10 cm, sau đó trộn chung các mẫu trong một nghiệm thức rồi một lấy mẫu đại diện và đem đi phân tích.
- Phân tích hàm lượng PBZ trong đất trước và sau thí nghiệm, PBZ trong thân và hạt, chiều cao cây, số chồi, số bông/m 2 , năng suất lúa.
- phép thử Duncan để so sánh sự khác biệt các nghiệm thức..
- Phần lớn nông dân cho rằng PBZ là loại thuốc giúp cây lúa lùn cây (76,7.
- Công dụng của PBZ được nông dân khẳng định là thuốc có tác dụng làm giảm chiều cao cây lúa và chống đổ ngã rất tốt.
- Loại thuốc thuốc thương phẩm trên thị trường được người dân sử dụng phổ biến là Bonsai 10WP (46,7.
- loại được sử dụng cũng thường xuyên là Bidamin 15WP (20%) (Bảng 1)..
- Tuy nhiên, một số nông dân có biện pháp xử lý khá khác biệt là kết hợp Bonsai 10WP hoặc Bidamin 15WP với thuốc diệt cỏ 2,4D để xử lý cho cây lúa với mục đích trên.
- Thuốc trừ cỏ 2,4D là loại thuốc khá độc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã loại khỏi danh mục các loại thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam.
- Để quản lý chiều cao cây lúa hiệu quả, nông dân xử lý PBZ rất đa dạng: xử lý hai lần/ vụ vào giai đoạn lúa 20 đến.
- 25 NSS và 40 đến 45 NSS chiếm tỷ lệ 63,3% phiếu điều tra, xử lý một lần/ vụ vào giai đoạn lúa 20 đến 25 ngày sau sạ (NSS) chiếm 36,7%.
- Kết quả điều tra cung cấp thông tin là PBZ đã được người dân sử dụng từ rất lâu (trung bình 9 đến 10 vụ liên tục):.
- trong tổng số phiếu điều tra có 56,7% hộ đã sử dụng 7 đến 9 vụ liên tục và 43,3% sử dụng trên liên tục từ 10 đến 12 vụ.
- Nông dân sử dụng PBZ với liều lượng trung bình 155 g/ 1000 m 2 , liều lượng này cao gấp 1,5 lần so với khuyến cáo của nhà sản xuất, trong đó liều lượng xử lý 150 đến 170 g/1000 m 2 chiếm 90% số phiếu điều tra (Bảng 1).
- Bảng 1: Thực trạng sử dụng PBZ tại Châu Thành, An Giang trong vụ Hè Thu 2018.
- 1 Nhận định của nông dân về PBZ.
- 2 Mục đích sử dụng.
- 4 Số lần xử lý/vụ.
- 5 Bắt đầu xử lý sản phẩm (vụ lúa).
- 6 Giai đoạn nông dân xử lý.
- 7 Cách xử lý Trộn với phân để rải 100.
- 8 Liều lượng sử dụng (g/1000m 2.
- Kết quả Bảng 2 cho thấy các nghiệm thức có chiều cao cây không khác biệt ý nghĩa thống kê..
- Điều này cho thấy việc phân lô và bố trí các nghiệm thức trên nền ruộng phân bố tương đối đồng nhất, là yếu tố cần thiết cho sự thành công của thí nghiệm về sau.
- Sau 70 NSS (48 ngày sau xử lý lần 1), nghiệm thức T4 xử lý PBZ bằng cách trộn phân bón (giai đoạn 22 NSS và 42 NSS) với liều 150 g/ 1000 m 2 và nghiệm thức T2 phun PBZ qua lá (giai đoạn 22 NSS và 42 NSS) với liều khuyến cáo (100 g/1.000 m 2 ) cho chiều cao cây lúa thấp tương đương nhau và chiều cao cây thấp khác biệt ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức T3 và T1(đối chứng không xử lý).
- Tại thời điểm này, chiều cao cây nghiệm thức T3 khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng không xử lý có thể là do giai đoạn tác động PBZ chưa hợp lý chỉ xử lý giai đoạn 22 NSS.
- Hai nghiệm thức T4 và T2 có tác động của PBZ vào giai đoạn sau (42 NSS) nên chiều cao của cây lúa thấp hơn so với hai nghiệm thức còn lại, kết quả này là do PBZ tác động làm giảm sinh tổng hợp gibberellin axit nội sinh bên trong cây (Omar, 1993)..
- Bảng 2: Chiều cao cây lúa ghi nhận tại thời điểm trước xử lý, 42 NSS và 70 NSS Nghiệm.
- xử lý.
- ns: khác biệt không ý nghĩa.
- Trước xử lý, cây lúa tại các nghiệm thức bố trí thí nghiệm tăng trưởng đồng đều nhau, số chồi ghi nhận tại thời điểm này không khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức.
- Sau 42 NSS (20 NSXL lần 1), các nghiệm thức xử lý PBZ bằng cách trộn phân rãi với liều 150 g/ 1000 m 2 và phun PBZ qua lá với liều khuyến cáo (100 g/1000 m 2 ) vào thời điểm lúa 22 NSS cho số chồi/ m 2 nhiều tương đương nhau và khác biệt ý nghĩa thống kê so với đối chứng không xử lý.
- Tại thời điểm 70 NSS (48 ngày sau xử lý lần 1), số chồi cây lúa (số bông/.
- m 2 ) không khác biệt giữa các nghiệm thức.
- Vì vậy việc sử dụng PBZ trong canh tác lúa cho thấy việc tăng số chồi quá nhiều trên đơn vị diện tích là không cần thiết, sự cạnh tranh không gian và dinh dưỡng diễn ra trong một không gian hẹp, những chồi lớn hơn (cây chính từ hạt) chiếm ưu thế cạnh tranh, các cây nhỏ không vượt lên được sẽ bị triệt tiêu (chồi vô hiệu).
- Kết quả này cho thấy việc sử dụng PBZ với mục đích tăng khả năng nảy chồi của cây lúa là không cần thiết.
- Bảng 3: Số chồi cây lúa ghi nhận tại thời điểm.
- 3.3 Ảnh hưởng của PBZ lên năng suất lúa Kết quả Bảng 4 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về các yếu tố cấu thành năng suất lúa giữa các nghiệm thức khi so sánh với nhau và so với nghiệm thức đối chứng không xử lý.
- và số bông/ m 2 là yếu tố đóng góp quan trọng trong năng suất.
- Trong thí nghiệm này, việc xử lý PBZ phun qua lá hoặc trộn phân rãi vào hai giai.
- đoạn lúa đẻ nhánh (20 - 25 NSS) và giai đoạn lúa phân hóa đòng (40 - 45 NSS) không làm cải thiện các yếu tố cấu thành năng suất trên lúa..
- Bảng 4: Ảnh hưởng của PBZ lên các yếu tố cấu thành năng suất năng suất lúa Nghiệm.
- Không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về năng suất thực tế giữa các nghiệm thức xử lý so với nghiệm thức đối chứng không xử lý (Bảng 4).
- Các nghiệm thức sử dụng PBZ không khác biệt ý nghĩa ở các yếu tố cấu thành năng suất (Bảng 4), vì thế không làm gia tăng năng suất lúa thí nghiệm.
- PBZ trong thí nghiệm này không phải là chất giúp cải tiến hoặc gia tăng năng suất lúa.
- Kết quả này cũng phù hợp với kết quả điều tra khảo sát tập quán sử dụng PBZ của nông dân trong khu vực bố trí thí nghiệm, mục đích nông dân sử dụng PBZ là hạn chế chiều cao cây lúa và hạn chế đổ ngã, mục đích này phù hợp với nghiên cứu của Ueno et al.
- 3.4 Đánh giá khả năng lưu tồn PBZ trong đất, cây lúa và hạt gạo.
- 3.4.1 Sự lưu tồn của PBZ trong đất.
- Tại thời điểm trước khi bố trí thí nghiệm, đã có sự hiện diện của PBZ trong đất do tập quán nông dân khu vực và nông dân ruộng bố trí thí nghiệm đã sử dụng PBZ liên tục 9 vụ, chủ yếu kết hợp PBZ trộn phân bón để rải cho lúa vào giai đoạn 20 - 22 NSS và 40 - 45 NSS.
- Kết quả này cũng cho thấy PBZ có khả năng lưu tồn trên nền đất lúa nếu nông dân sử dụng liên tục nhiều vụ hoặc lưu tồn từ vụ trước sang vụ sau.
- Vì thế, PBZ cần cân nhắc khi sử dụng PBZ trên nền đất canh tác lúa.
- Hàm lượng PBZ của các nghiệm thức tại thời điểm trước xử lý không khác biệt khi phân tích thống kê ở mức ý nghĩa 5% (Bảng 5)..
- Tại thời điểm sau khi thu hoạch lúa thí nghiệm, đất của các nghiệm thức được đưa đi phân tích hàm lượng PBZ một lần nữa, hàm lượng PBZ trong đất cao nhất được ghi nhận ở nghiệm thức T4 (trộn PBZ với phân rãi 22 NSS và 42 NSS) và khác biệt ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại..
- Hàm lượng PBZ trong đất cao vị trí thứ hai là.
- nghiệm thức T3 (trộn PBZ với phân rãi giai đoạn 22 NSS) và khác biệt ý nghĩa thống kê so với phun PBZ qua lá hai lần (T2).
- Nghiệm thức đối chứng có hàm lượng PBZ trong đất thấp nhất, dù không được bổ sung thêm PBZ trong vụ bố trí thí nghiệm nhưng khi phân tích mẫu đất vẫn còn phát hiện một lượng PBZ nhất định, kết quả này cho thấy PBZ lưu tồn lâu trên nền đất canh tác lúa nước (Bảng 5)..
- Kết quả này cũng cho thấy, nếu tập quán sử dụng PBZ của nông dân như hiện tại, sự tích lũy PBZ trong đất sẽ tăng theo từng vụ.
- Ở nghiệm thức T2, khi phun PBZ thì vẫn có sự lưu tồn PBZ và trong đất sự lưu tồn của PBZ trong thí nghiệm này phù hợp với nghiên cứu Jacyna and Dodds (1995) trên cây ăn trái PBZ lưu tồn trong đất ba tháng khi phun lên lá mà không che phủ mặt líp và 11 tháng đối với phương pháp xử lý tưới vào đất..
- Bảng 5: Hàm lượng của PBZ trong đất thời điểm trước và sau thu hoạch.
- Nghiệm thức.
- Hàm lượng PBZ trong đất (µg/kg).
- Trước xử lý Sau thu hoạch.
- 3.4.2 Sự lưu tồn của PBZ trong cây lúa thí.
- Kết quả Bảng 6 cho thấy có sự hiện diện của PBZ trong thân lá và hạt lúa sau thí nghiệm.
- Sự hiện diện của PBZ trong thân lá: hàm lượng PBZ cao nhất được ghi nhận ở nghiệm thức T4 và khác biệt ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn.
- Kế đến là nghiệm thức T2 (phun PBZ trên lá 22 NSS và 42 NSS) ghi nhận hiện diện 1.090 µg PBZ/.
- 1 kg thân lá, nghiệm thức T3 (trộn PLZ với phân rãi giai đoạn 22 NSS) ghi nhận hiện diện 60 µg PBZ/ 1 kg thân lá.
- Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy, nghiệm thức đối chứng không được cung cấp PBZ trong vụ bố trí thí nghiệm cũng ghi nhận có sự hiện 34 µg PBZ/ 1 kg thân lá, đều này có thể lý giải vì các vụ trước PBZ đã được nông dân sử dụng trên lúa..
- Bảng 6: Hàm lượng của PBZ trong thân lá và trong hạt tại thời điểm thu hoạch Nghiệm thức Hàm lượng PBZ cây lúa (µg/kg).
- Sự hiện diện của PBZ trong hạt lúa: hàm lượng PBZ trong hạt cao nhất được ghi nhận ở nghiệm thức T4 (trộn PBZ với phân rãi 22 NSS và 42 NSS) và khác biệt ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
- Kế đến là nghiệm thức T3 (phun PBZ trên lá 22 NSS và 42 NSS) và nghiệm thức T3 (trộn PBZ với phân rãi giai đoạn 22 NSS) hàm lượng PBZ trong hạt tương đương nhau (Bảng 6)..
- Không ghi nhận sự hiện diện của PBZ trong hạt ở nghiệm thức đối chứng không xử lý có thể là do lượng lưu tồn trong đất ở vụ trước thấp, chưa đủ hàm lượng để lại dư lượng trên hạt.
- Kết quả này cũng cho thấy việc sử dụng PBZ trên lúa sẽ để lại dư lượng trên thân lá và hạt cho vụ áp dụng và khi ngừng sử dụng PBZ ở vụ kế tiếp có thể không để lại dư lượng trong hạt nhưng dư lượng trong đất vẫn còn..
- PBZ đã được nông dân khu vực xã Hòa Bình Thạnh và Vĩnh Lợi sử dụng rất lâu, trung bình 10 vụ liên tục.
- PBZ không làm gia tăng các yếu tố cấu thành năng suất đối với giống lúa IR50404, vì thế không làm gia tăng năng suất lúa thí nghiệm.
- Hàm lượng PBZ trong thân và hạt được ghi nhận cao nhất ở nghiệm thức bón 3,0 kg PBZ /ha (550 µg/ kg), kế đến là 1,5 kg PBZ /ha (110 µg/ kg) và nghiệm thức 1,0 kg PBZ /ha (104 µg/ kg)..
- Trong điều kiện trồng lúa không có yếu tố gây đổ ngã, nông dân không phải sử dụng PBZ vì nó không giúp gia tăng năng suất lúa suất trên giống lúa IR50404.
- Tuy nhiên trong điều kiện môi trường bất lợi dễ gây đổ ngã lúa, có thể giảm thiểu thiệt hại năng suất nhờ sử dụng PBZ để làm lúa lùn cây và giảm đỗ ngã.
- Báo thực trạng việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên cây lúa..
- Giáo trình cây lúa.
- Cơ sở khoa học cây lúa