« Home « Kết quả tìm kiếm

Độ nổi và tính bền vững thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015


Tóm tắt Xem thử

- ĐỘ NỔI VÀ TÍNH BỀN VỮNG THUẾ CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2006-2015.
- Doanh thu thuế, độ nổi thuế, hiệu quả thu thuế, GDP, tính bền vững của thuế.
- Khi GDP tăng trưởng thì số thu thuế sẽ tăng lên tỷ lệ tương ứng nếu loại trừ yếu tố kém hiệu quả của hệ thống thuế.
- Độ nổi thuế giai đoạn của Thừa Thiên Huế khác biệt qua từng năm trong giai đoạn nghiên cứu, có những năm chỉ số này rất cao, có những năm lại rất thấp.
- Độ nổi thuế bình quân nhỏ hơn 1, điều này cho thấy năng lực thu thuế từ nền kinh tế của Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn còn yếu.
- Một hệ thống thuế hiệu quả là khi tốc độ tăng thu thuế cao hơn và nhanh hơn sự gia tăng tổng sản phẩm quốc gia.
- Vấn đề này đòi hỏi Cục thuế cần phải tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả thu thuế trong thời gian sắp tới..
- Độ nổi và tính bền vững thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015.
- Kinh tế học đã chỉ ra rằng GDP và số thu từ thuế luôn có quan hệ hai chiều biện chứng với nhau, nghĩa là GDP tăng trưởng thì số thu thuế sẽ tăng lên tỷ lệ tương ứng nếu loại trừ yếu tố kém hiệu quả của hệ thống thuế và tỷ lệ động viên của thuế ở mức hợp.
- Tuy nhiên, với những tác động kể trên liệu có làm cho GDP tăng trưởng? Và nếu GDP đã thực sự tăng trưởng thì có kéo theo sự gia tăng doanh thu thuế không và nếu có thì sự gia tăng này có tương ứng với tốc độ tăng trưởng GDP không?.
- Để trả lời cho những câu hỏi này cần thiết phải đo lường độ nổi và tính bền vững của thuế..
- Đối tượng của nghiên cứu này là độ nổi và tính bền vững thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2006-2015..
- Phương pháp thu thập dữ liệu: Số liệu nghiên cứu của đề tài được thu thập chủ yếu thông qua phương pháp ghi chép, tổng hợp từ các nguồn dữ liệu thứ cấp là số liệu thu thuế được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu và các báo cáo tổng kết của Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2015..
- Phương pháp phân tích dữ liệu: Đo lường 02 chỉ tiêu định lượng là độ nổi và tính bền vững của thuế của Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn bên trong sử dụng kết hợp các kỹ thuật tính toán thống kê, so sánh, sử dụng mô hình hồi quy bán logarit và mô hình hồi quy logarit kép..
- Về lý thuyết, độ nổi của thuế được xác định như sau:.
- Độ nổi thuế.
- thay đổi doanh thu thuế.
- thay đổi cơ sở thuế Các chỉ số doanh thu thuế và cơ sở thuế sẽ tính theo giá trị thực, đã được điều chỉnh lạm phát.
- (Haughton, 1998) để tránh kết quả độ nổi của thuế sẽ bị thiên lệch về 1 khi các chỉ số trên được tính theo giá trị danh nghĩa..
- Trong thực tế, việc tính độ nổi của thuế theo công thức trên sẽ không thể đưa đến một kết luận tổng quát vì các chỉ số doanh thu thuế và cơ sở thuế khác nhau qua các năm.
- Do đó, việc tính toán độ nổi của thuế trong một thời kỳ 5 đến 10 năm là cần thiết để thấy được tính bền vững của doanh thu thuế trong mối tương quan với GDP.
- Và có 05 phương pháp để tính độ nổi bình quân cho một thời kỳ:.
- Phương pháp 1: Tính độ nổi cho từng năm rồi tính trung bình.
- Mặc dù có ưu điểm đơn giản trong kỹ thuật tính toán nhưng phương pháp này lại có hạn chế lớn khi kết quả có thể dẫn đến những đánh giá không chính xác do số liệu về doanh thu thuế hoặc cơ sở thuế của một hay một vài năm có hiện tượng tăng giảm bất thường..
- Phương pháp 2: Tính tốc độ tăng doanh thu thuế và cơ sở thuế giữa năm đầu với năm cuối trong một thời kỳ nhất định.
- Phương pháp 3: Tính tốc độ tăng doanh thu và cơ sở thuế dựa trên dữ liệu trung bình của hai thời kỳ đầu và cuối..
- Phương pháp 4: Hồi quy log của doanh thu thuế theo năm (mô hình hồi quy Log-lin) và hồi quy log của GDP theo năm để có được tốc độ tăng trung bình của doanh thu thuế và GDP.
- Sau đó sử dụng các tỷ lệ tăng trưởng này để tính độ nổi của thuế..
- Phương pháp 5: Hồi quy log của doanh thu thuế theo log của cơ sở thuế (mô hình hồi quy Log-log)..
- Khi đó, hệ số theo log của cơ sở thuế chính là một thước đo về độ nổi của thuế..
- Một chỉ tiêu khác được sử dụng làm thước đo hiệu quả nộp thuế là tính bền vững của thuế chính là hệ số biến đổi được tính là tỷ số của độ lệch chuẩn của doanh thu thuế chia cho giá trị trung bình của doanh thu thuế.
- Giá trị này còn gọi là hệ số phương sai nhằm đo lường giá trị sai lệch của một đơn vị trung bình của doanh thu thuế.
- Do đó, tính bền vững của thuế càng lớn càng nói lên doanh thu thuế sẽ biến động lớn (Haughton, 1988)..
- Độ lệch chuẩn của doanh thu thuế Giá trị trung bình của doanh thu.
- 3.1 Hiệu quả thu thuế thông qua độ nổi của thuế.
- Độ nổi thuế giai đoạn 2006-2015 của tỉnh Thừa Thiên Huế khác biệt qua từng năm trong giai đoạn.
- Bảng 1: Độ nổi thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015 theo phương pháp 1.
- Doanh thu thuế danh nghĩa.
- thay đổi Doanh thu thuế danh nghĩa.
- thay đổi Doanh thu thuế thực.
- Độ nổi bình quân 1,06.
- Phân tích Bảng 1 cho thấy, trong giai đoạn có hai năm độ nổi của thuế tại tỉnh Thừa Thiên Huế rất cao, như năm 2012 là 5,66% hay năm 2015 là 4,46%.
- Điều này có nghĩa là, tương ứng năm 2012 và năm 2015, khi GDP tăng trưởng 1% thì doanh thu thuế tăng tương ứng lần lượt là 5,66% và 4,46%, đây là tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao so với tốc độ tăng GDP cùng kỳ.
- Lý giải cho điều này là bởi, năm 2012 so với năm 2011, tốc độ tăng doanh thu thuế thực đạt tới gần 55% trong khi tốc độ tăng GDP thực chỉ đạt 9,7%.
- Sở dĩ có sự gia tăng đột biến như vậy về doanh thu thuế là do trong năm 2012, doanh thu thuế ở hầu hết các khu vực đều tăng, đặc biệt là doanh thu thuế của khu vực các doanh nghiệp nhà nước tăng đột biến, tới gần 566%.
- Bên cạnh đó, còn phải kể đến là việc tăng mạnh số thu thuế từ công ty Xổ số.
- kiến thiết (Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế .
- Khi so năm 2015 với năm 2014 thì tốc độ tăng doanh thu thuế thực đạt tới 40,3% trong khi tốc độ tăng GDP thực chỉ đạt hơn 9%.
- Bên cạnh đó, cũng phải kể đến sự gia tăng doanh thu thuế từ khu vực ngoài nhà nước, chủ yếu khoản thu này có tăng so với cùng kỳ là do Công ty cổ phần Thủy điện Bình Điền nộp tăng 41% so với cùng kỳ, Công ty cổ phần Thủy điện Hương Điền có số thu nộp tăng 136% so với cùng kỳ, Công ty cổ phần Xi măng Đồng Lâm nộp tăng 212% so với cùng kỳ và có sự chuyển đổi Công ty Môi trường đô thị từ doanh nghiệp nhà nước địa phương sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế .
- Trong khi đó, độ nổi thuế của 3 năm và 2014 là âm, đặc biệt là năm 2013 độ nổi thuế là - 4,18%, trong khi những năm khác là dương.
- này có nghĩa là độ nổi của thuế trong những năm này tỷ lệ nghịch với cơ sở thuế, khi GDP tăng thì doanh thu thuế giảm hoặc cũng có thể ngược lại khi GDP giảm thì doanh thu thuế tăng.
- của năm 2013 cho thấy rằng so với năm 2012, khi GDP thực tăng 1% trong năm 2013 thì doanh thu thuế giảm 4,18%.
- Sở dĩ như vậy là do năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012, tốc độ tăng GDP thực đạt gần 8% nhưng tốc độ tăng doanh thu thuế thực sụt giảm nghiêm trọng, tương ứng giảm 33%.
- Nguyên nhân là do số thu từ khu vực kinh tế nhà nước năm 2013 đạt thấp và giảm so với cùng kỳ, do có một số đơn vị trọng điểm có số nộp ngân sách giảm như Công ty khoáng sản Thừa Thiên Huế giảm 35%, Công ty Sài gòn Morin -Huế giảm 25%, thêm vào đó là do năm 2012, như đã đề cập ở trên, có số thu lớn, một phần là từ 411 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp từ chuyển nhượng vốn của Công ty Bia Huế và từ số thu thuế từ công ty Xổ số Kiến thiết (Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế .
- Tuy nhiên, đây chỉ là một kết quả ngắn hạn, thể hiện sự tác động của các yếu tố đặc thù phát sinh trong năm 2013, không đại diện cho tính dài hạn của doanh thu thuế.
- Sự sụt giảm tạm thời này của doanh thu thuế một vài năm có thể là do những tác động tức thời khác của chính sách vĩ.
- Để thấy được độ nổi thuế trong dài hạn, cần tính độ nổi bình quân cho cả thời kỳ .
- Căn cứ vào độ nổi thuế hàng năm (Bảng 1), độ nổi thuế bình quân được tính cho giai đoạn này là 1,06%..
- Như vậy, có thể kết luận rằng, bình quân khi GDP thực tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 1,06%.
- Tuy có thể nói rằng với giá trị độ nổi thuế giai đoạn lớn hơn 1 (kết quả được tính toán theo phương pháp 1) thì có thể xem như giai đoạn này công tác thu thuế phần nào đạt được hiệu quả khi mà tốc độ tăng trưởng doanh thu thuế lớn hơn tốc độ tăng trưởng GDP, nhưng với con số có phần khiêm tốn đó thì cũng thấy rằng Cục thuế chưa thể lạc quan với kết quả hiện tại mà cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế..
- Độ nổi thuế có thể được ước lượng theo nhiều phương pháp khác nhau, và mỗi một phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng.
- Do đó, để phần nào hạn chế được những nhược điểm cố hữu của các phương pháp và cũng để có một kết quả ước lượng toàn diện hơn, đề tài sẽ tiếp tục thực hiện ước lượng độ nổi thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015 theo 04 phương pháp còn lại.
- Tiếp theo dưới đây là bảng kết quả ước lượng độ nổi thuế theo phương pháp thứ hai, tức là ước lượng độ nổi thuế dựa vào số liệu của năm đầu và năm cuối của giai đoạn nghiên cứu..
- Bảng 2: Độ nổi thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015 theo phương pháp 2 Năm GDP thực % thay đổi GDP.
- Doanh thu thuế thực.
- thay đổi doanh thu thuế thực bình quân.
- Độ nổi bình quân .
- Theo phương pháp 2 cho kết quả độ nổi của thuế bình quân giai đoạn của tỉnh Thừa.
- Thiên Huế là 0,97% (Bảng 2), nghĩa là bình quân khi GDP thực tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 0,97%..
- Bảng 3: Độ nổi thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015 theo phương pháp 3 Năm GDP thực.
- Doanh thu thuế thực bình quân.
- Tương tự, tính toán theo phương pháp 3 cho kết quả độ nổi của thuế bình quân giai đoạn .
- của tỉnh Thừa Thiên Huế là 0,83% (Bảng 3), nghĩa là bình quân khi GDP thực tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 0,83%..
- Ln(Doanh thu thuế thực.
- Kết quả hồi quy này cho thấy, trong giai đoạn GDP thực của tỉnh Thừa Thiên Huế tăng bình quân một năm là 9,8% và doanh thu thuế thực tăng bình quân một năm là 8,4%.
- Như vậy, độ nổi thuế của giai đoạn này theo phương pháp (4) sẽ là 8,4% chia.
- 9,8% bằng 0,86%, nghĩa là khi GDP thực tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 0,86%..
- Bảng 6: Độ nổi thuế theo phương pháp 5.
- Theo phương pháp ước lượng độ nổi thuế thứ (5), ta có phương trình hồi quy Ln(Doanh thu thuế thực) theo Ln(GDP thực) như sau:.
- Kết quả hồi quy cho thấy, giá trị β 1 là 0,878, điều đó có nghĩa, trong giai đoạn độ nổi thuế giai đoạn tính toán theo phương pháp (5) sẽ là 0,878%, cụ thể là khi GDP thực tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 0,878%..
- Bảng 7: Độ nổi thuế của tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn theo các phương pháp.
- Phương pháp Nội dung Độ nổi thuế.
- 1 Sử dụng độ nổi bình quân các năm 1,06.
- Độ nổi bình quân các phương pháp 0,92.
- Như vậy, mỗi phương pháp tính toán áp dụng sẽ cho kết quả khác nhau về độ nổi của thuế trong cùng một giai đoạn nghiên cứu (Bảng 7).
- Tuy nhiên, trong tình huống nghiên cứu hiện tại, thuận lợi không có sự chênh lệch quá lớn về độ nổi thuế giữa các phương pháp.
- Do đó, chúng ta có thể sử dụng độ nổi thuế bình quân của các phương pháp trên là 0,92%.
- để kết luận cho độ nổi của thuế thời kỳ của tỉnh Thừa Thiên Huế, cụ thể hơn trong giai đoạn này khi GDP thực tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 0,92% (Bảng 7)..
- Tóm lại, với độ nổi thuế bình quân là 0,92 nhỏ hơn 1 thì có thể kết luận rằng công tác quản lý thu thuế của Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai.
- đoạn là chưa thực sự đạt được hiệu quả khi mà tốc độ tăng doanh thu thuế chậm hơn tốc độ gia tăng GDP, điều này cho thấy năng lực thu thuế từ nền kinh tế còn yếu.
- Do đó, cơ quan thuế cần tích cực hơn nữa trong công tác đánh giá, phân tích công tác quản lý thu thuế nói riêng cũng như công tác quản lý thuế nói chung.
- từ đó có thể tìm được những giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả thu thuế của mình trong thời gian tới..
- 3.2 Hiệu quả thu thuế thông qua tính bền vững của thuế.
- Bảng 8: Tính bền vững của thuế ở tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006-2015.
- thu thuế.
- doanh thu thuế của các khu vực kinh tế Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực doanh nghiệp FDI và tổng thu thuế của Cục thuế tỉnh.
- Doanh thu thuế của khu vực ngoài quốc doanh có tính bền vững kém nhất (chỉ số tính bền vững lớn nhất 1,03), cũng có nghĩa là khu vực này tạo ra sự biến động của doanh thu thuế lớn nhất, tiếp đến là doanh nghiệp.
- nhà nước (chỉ số tính bền vững là 0,92), sau đó là khu vực doanh nghiệp FDI có chỉ số tính bền vững thấp nhất (0,21), tức là tính bền vững cao, doanh thu thuế ít biến động trong giai đoạn nghiên cứu.
- Xét tổng thể thì tổng thu thuế có tính bền vững tương đối thấp, tức là doanh thu thuế ít biến động trong giai đoạn nghiên cứu..
- Công tác thu thuế của Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn chưa thực sự đạt được hiệu quả khi mà tốc độ tăng doanh thu thuế chậm hơn tốc độ gia tăng GDP, điều này cho thấy năng lực thu thuế từ nền kinh tế còn yếu, biểu hiện ở chỉ độ nổi thuế bình quân nhỏ hơn 1.
- để từ đó có thể tìm được những giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả thu thuế của mình trong thời gian tới.