« Home « Kết quả tìm kiếm

GIA NHẬP WTO - NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC TRONG ĐỔI MỚI TƯ DUY LẬP PHÁP


Tóm tắt Xem thử

- Gia nhập WTO - những cơ hội chung trong đổi mới đối với Việt Nam.
- Theo Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (1.
- Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp..
- có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các thành viên khác, hạn chế những thiệt hại..
- Năm là, chúng ta hiện có đường lối đối ngoại của Đảng: "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế", phát huy vai trò của nước ta trong khu vực và quốc tế, xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng với các nước trên thế giới..
- Những thách thức chung trong đổi mới đối với Việt Nam.
- Trong khi nhận thức rõ những cơ hội chung trong đổi mới đối với Việt Nam do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức chung trong đổi mới mà Việt Nam phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập.
- Theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, nước ta đứng trước những thách thức lớn như sau:.
- Đặc biệt, chúng ta còn thiếu một đội ngũ luật gia giỏi, thông thạo pháp luật quốc tế và ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh.
- Những cơ hội và thách thức mới này cũng là cơ hội và thách thức mới đối với công tác lập pháp của Việt Nam, đối với toàn bộ cán bộ, công chức nhà nước các cấp của Việt Nam nói chung, đối với các cán bộ, công chức tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực lập pháp của Việt Nam nói riêng trong điều kiện mới..
- Đổi mới tư duy lập pháp trước yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- a) Tổng quan về hệ thống pháp luật theo yêu cầu của WTO.
- Để thực hiện được quy định này của WTO, Việt Nam phải tiến hành rà soát, đối chiếu, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam với các quy định, yêu cầu của WTO theo cách làm của WTO (Rà soát WTO).
- Các quy định, luật lệ của WTO rất chung, rất trừu tượng, có gắn kết với nhiều học thuyết kinh tế, thương mại quốc tế và các án lệ thương mại quốc tế đòi hỏi phải có đổi mới cần thiết tư duy pháp luật và phải căn cứ vào thực tiễn hoàn thiện pháp luật của các nước thành viên WTO thời gian qua.
- Đây là yêu cầu rất khó khăn và nặng nề trong quá trình thực hiện, đòi hỏi đầu tư nguồn nhân lực pháp luật và trí tuệ lớn..
- Xuất phát từ yêu cầu này của WTO, các hoạt động lập pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trung ương cũng như ở địa phương Việt Nam phải bảo đảm tuân thủ các nghĩa vụ của Việt Nam với WTO đã nêu trên.
- b) Tổng quan về yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam.
- Ngay sau khi kết thúc đàm phán ngày về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam, Quốc hội đã giao Chính phủ và Chính phủ đã có văn bản giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương tiếp tục rà soát, đối chiếu, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến các cam kết cụ thể của Việt Nam trong Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam (Rà soát WTO+)..
- Đối chiếu với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam, sau khi rà lại toàn bộ vấn đề theo yêu cầu Rà soát WTO và Rà soát WTO+, chúng ta nhận thấy Việt Nam không phải bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản quy phạm pháp luật để thực thi các cam kết của Việt Nam về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam.
- Về luật và pháp lệnh, trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, trong thời hạn ba năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, có thể cần sửa đổi, bổ sung Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt để thực thi cam kết về thuế đối với rượu, bia.
- Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, trong 5 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, có thể cần điều chỉnh một số quy định của Luật Dầu khí để cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung ứng dịch vụ hỗ trợ cho khai thác dầu khí.
- Cũng có thể phải sửa đổi Luật Chứng khoán trong 5 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO để cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam.
- Về quy định liên quan đến minh bạch, công khai, có thể phải điều chỉnh một số quy định của các Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật sau khi Việt Nam gia nhập WTO để nội luật hoá các quy định liên quan đến cơ chế lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của các tổ chức, cá nhân khác nhau đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- điều chỉnh một số văn bản có các quy định liên quan đến các luật, pháp lệnh nói trên và có thể cần ban hành một số văn bản cấp Chính phủ, Bộ, ngành để hướng dẫn cụ thể, chi tiết thi hành các cam kết của Việt Nam theo Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam..
- c) Một số vấn đề pháp luật cần tiếp tục nghiên cứu xử lý theo tư duy lập pháp đổi mới.
- Theo tài liệu lịch sử đàm phán việc thành lập WTO, cách tư duy lập pháp này và cách viết các văn bản pháp luật của WTO là cách tư duy và cách viết của các thương gia chứ không phải của luật gia, nhưng thực tiễn là như vậy..
- WTO công nhận mô hình thực tiễn pháp luật án lệ thương mại quốc tế và cũng không loại trừ việc các bên liên quan “dàn xếp thực tế tại hành lang”..
- Vấn đề đổi mới tư duy lập pháp theo nội dung cấu trúc các bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật thương mại quốc tế của WTO.
- Vấn đề đổi mới tư duy lập pháp theo nội dung các bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật thương mại quốc tế của WTO khá phức tạp, buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động lập pháp phải có những kiến thức chuyên môn cần thiết, phải được đào tạo, chuẩn bị hành nghề theo một tư duy pháp lý và kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu nhất định.
- Phức tạp trước tiên là ở chỗ chọn chủ thuyết “Nhất nguyên luận” hay “Nhị nguyên luận” trong quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế để xử lý vấn đề..
- WTO có cả một Cơ chế Rà soát pháp luật và chính sách thương mại quốc tế của quốc gia thành viên WTO khá hoàn thiện mà các thành viên WTO phải tuân theo..
- Theo quy định, các nước thành viên phải báo cáo cụ thể thực trạng pháp luật và chính sách thương mại quốc tế của quốc gia thành viên WTO cho WTO.
- Việc thông tin đầy đủ những thay đổi trong pháp luật quốc gia liên quan đến luật lệ của WTO và cam kết của quốc gia với WTO là nghĩa vụ bắt buộc thực hiện.
- Vấn đề đổi mới tư duy lập pháp theo nội hàm khái niệm, từ dùng trong Bộ văn kiện pháp lý cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
- Bộ văn kiện pháp lý cam kết gia nhập WTO của Việt Nam có rất nhiều thuật ngữ, khái niệm, phạm trù kinh tế, pháp lý khá phức tạp được lấy từ các hiệp định, văn kiện pháp luật, quyết định của WTO.
- Thương mại Việt Nam năm 2005 có quan niệm chưa hẳn thích ứng về vấn đề này..
- Việc quan niệm như vậy trên thực tế đã làm phát sinh không ít phức tạp khi Việt Nam thực thi Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng như áp dụng Luật Thương mại và Pháp lệnh về trọng tài thương mại.
- trong Công ước đó trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam (đến nay thì không rõ sẽ phải theo cách hiểu của Luật Thương mại hay cách hiểu của Pháp lệnh về trọng tài thương mại)..
- Việt Nam là thành viên của Công ước này, Công ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 01/01/2000.
- Theo quy định, tất cả những sản phẩm cụ thể nào được liệt kê, được mã hoá và mô tả trong Danh mục hồ sơ thì được gọi là hàng hoá chứ không chung chung và rất trừu tượng như đã được định nghĩa trong Luật Thương mại hoặc Luật Hải quan của Việt Nam..
- Pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng và cụ thể về vấn đề này.
- Hơn nữa, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Việt Nam về xác định một hàng hoá tương tự cũng chưa xảy ra.
- Do vậy, trong thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO, cần chú ý đến các quyết định của WTO về giải quyết tranh chấp loại này..
- Mất một thời gian dài mới có một văn bản của Chính phủ quy định về vấn đề này, nhưng thực tiễn và kinh nghiệm xử lý vấn đề này của Việt Nam chưa nhiều..
- Pháp luật Việt Nam chưa có định nghĩa về dịch vụ theo cách hiểu chung của WTO, theo đó mọi hoạt động hoặc sản phẩm được liệt kê vào, được mã hoá và mô tả trong Bảng phân loại các sản phẩm dịch vụ cơ bản của Liên hợp quốc (Danh mục CPC) đã đề cập đến trong GATS/WTO thì được gọi là dịch vụ.
- Pháp luật Việt Nam cũng chưa có định nghĩa về thương mại dịch vụ theo định nghĩa trong Hiệp định GATS/WTO mà các nước thành viên WTO phải tuân theo và cũng chưa điều chỉnh đầy đủ các vấn đề cung ứng dịch vụ theo các phương thức cung ứng dịch vụ theo GATS/WTO..
- Theo quy định MFN, nếu Việt Nam ký kết một điều ước quốc tế thương mại song phương với các nước khác và nếu các bên liên quan không đạt được sự thoả thuận nào khác (bảo lưu MFN), thì các thành viên khác của WTO (sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO) sẽ được hưởng tại Việt Nam các nhượng bộ mà Việt Nam dành cho bên ký kết điều ước song phương đó..
- Theo Danh mục các ngoại lệ về MFN đính kèm Biểu cam kết về dịch vụ, Việt Nam đã đạt được khá nhiều bảo lưu MFN trong các khoảng thời gian khác nhau, có loại 5 năm, có loại 10 năm và có loại thời hạn không được xác định..
- Mặc dù trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã có quy định về MFN, nhưng lại chưa định rõ nội hàm của khái niệm đó, cũng như chưa xác định rõ các trường hợp áp dụng MFN đối với các nước thứ ba khi họ yêu cầu được hưởng MFN..
- Về NT, có thể thấy pháp luật hiện hành của Việt Nam đã có quy định về NT trong một mức độ rất chung trong một văn bản Pháp lệnh công bố năm 2002..
- Trong khi đó Việt Nam chưa có văn bản nào giải thích về khái niệm đó, về nội hàm của nó, cũng như cơ chế vận hành, áp dụng NT..
- Bộ luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản dưới luật của Việt Nam không dùng khái niệm "các quy định có nội dung kinh tế", chưa định rõ các quyền sở hữu trí tuệ nào là "quyền kinh tế", các quyền nào là "quyền tinh thần", mà chỉ mới quy định "quyền tài sản".
- Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam đã có quy định khá rộng về vấn đề này nhưng chủ yếu điều chỉnh các quan hệ đầu tư.
- về cơ bản đã được quy định khá tổng quát trong Luật Đầu tư áp dụng cho mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài dưới hình thức đầu tư gián tiếp, nhưng các quy định cụ thể về nó cần được tiếp tục nghiên cứu cụ thể hoá, kể cả vấn đề đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước, đầu tư của người có hai hoặc nhiều quốc tịch.....
- Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam quy định khái niệm doanh nghiệp có giới hạn, không được mở rộng cho bất kỳ thực thể nào được thành lập hoặc tổ chức theo pháp luật áp dụng nhằm bất kỳ mục đích hoạt động nào.
- của doanh nghiệp được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam không hoàn toàn giống như cách giải quyết trong các cam kết của Việt Nam với WTO và với các nước..
- Đổi mới tư duy lập pháp trước yêu cầu phải nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO.
- Theo quy định tại điểm 2, 3, 4 Phần I - Quy định chung của Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập WTO, thì “Hiệp định Marrakesh (Hiệp định WTO) mà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gia nhập là Hiệp định WTO bao gồm cả Chú giải cho Hiệp định này, được chỉnh lý, sửa đổi hay thay đổi bằng cách nào thông qua các văn bản pháp luật có hiệu lực trước thời điểm Nghị định thư này có hiệu lực.
- Trừ khi có quy định khác tại đoạn 527 trong Báo cáo của Ban Công tác, những nghĩa vụ trong các Hiệp định Thương mại đa phương là Phụ lục của Hiệp định WTO cần được đưa vào thực hiện trong một thời hạn nhất định kể từ thời điểm Hiệp định này có hiệu lực, sẽ được nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực hiện như trong trường hợp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã chấp nhận Hiệp định này vào thời điểm Hiệp định này có hiệu lực.
- Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có thể duy trì biện pháp không phù hợp với Khoản 1 Điều 2 của Hiệp định GATS với điều kiện biện pháp này được quy định trong danh mục các miễn trừ của Điều 2 đi kèm theo Nghị định thư này và đáp ứng các điều kiện của Phụ lục Hiệp định GATS về các miễn trừ của Điều 2”..
- b) Tổng quan về yêu cầu đổi mới tư duy trong thực hiện các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO.
- Để đổi mới tư duy trong thực hiện các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO, Việt Nam đã gia nhập Công ước Viên năm 1969 về Luật các điều ước quốc tế.
- Quốc hội thông qua Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, trong đó khẳng định nguyên tắc Việt Nam phải nghiêm chỉnh chấp hành các cam kết quốc tế của Việt Nam (Pacta sunt servanda) và khả năng áp dụng trực tiếp các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- các cơ quan Nhà nước Việt Nam cũng đã thảo luận phương án xây dựng các văn bản thực thi các quy định của WTO và đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế theo kỹ thuật một văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác (Omnibus Laws) [2]....
- Tuy vậy, việc hiểu đúng và chấp hành nghiêm chỉnh các luật lệ của WTO là thách thức không nhỏ trong mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước Việt Nam nói chung và đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động lập pháp nói riêng.
- Để thực hiện được yêu cầu nói trên, phải đổi mới tư duy để mỗi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức tham gia hoạt động lập pháp nghiên cứu và hiểu rõ, đầy đủ, toàn diện về bản chất, tổ chức, hoạt động của WTO, luật lệ của WTO để cân nhắc khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và tham gia hướng dẫn thi hành đúng các yêu cầu đó..
- Bên cạnh việc nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ của WTO, Việt Nam nói chung, các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức tham gia hoạt động lập pháp nói riêng còn phải đổi mới tư duy thực thi các cam kết với WTO, đặc biệt là các cam kết về mở cửa thị trường thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ của Việt Nam cho các thành viên WTO được thể hiện rõ trong Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam thông qua các quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
- chấp hành các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO, ASEAN, các điều ước quốc tế khu vực và song phương mà Việt Nam đã ký kết với các nước khác, phải tham khảo các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, của các toà án quốc tế, các học thuyết kinh tế - pháp lý khác nhau về các vụ việc thương mại quốc tế trong khi vẫn phải thực thi các quy định pháp luật trong nước liên quan..
- Đổi mới tư duy lập pháp trước yêu cầu phải tăng cường nguồn nhân lực trong hoạt động lập pháp, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế đã được nhấn mạnh trong các Nghị quyết nói trên và các tài liệu, văn kiện khác của Đảng và Nhà nước..
- Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sẽ có nhiều hơn các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam.
- Mặt khác, WTO yêu cầu thực thi pháp luật thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ của nước thành viên.
- b) Tổng quan yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực trong hoạt động lập pháp, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia pháp luật nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế và giải pháp xử lý vấn đề.
- Các cơ quan pháp luật đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị nguồn nhân lực pháp luật, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật trên phạm vi toàn quốc, góp phần thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt ra.
- Tuy vậy, gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu tăng cường nguồn nhân lực pháp luật, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia pháp luật nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần xử lý các vấn đề do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra.
- Thứ nhất, đó là vấn đề nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật của các cơ quan pháp luật.
- Do đội ngũ cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật của nước ta là các "máy cái", nên các "máy cái".
- vận hành tốt đồng đều tại các nơi khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
- Cần triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và WTO của các cơ quan bảo vệ pháp luật bằng tiếng Anh cho những cán bộ, học viên được định hướng hoạt động đối ngoại hoặc tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế có yếu tố nước ngoài.
- Thứ hai, đó là vấn đề nâng cao chất lượng chuyên môn của các công cụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà trước tiên là hệ thống các giáo trình, giáo án, tài liệu pháp luật tham khảo liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và WTO.
- Các giáo trình, giáo án, tài liệu pháp luật tham.
- Thứ ba, đó là vấn đề nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng của các cán bộ lập pháp, hành pháp và tư pháp, của mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động pháp luật.
- Cần có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động tác nghiệp liên quan đến pháp luật và dịch vụ pháp lý của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và có biện pháp xử lý thoả đáng các vi phạm.
- Tóm lại, yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực pháp luật, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra trách nhiệm đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc rà soát lại chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức và các công cụ, phương tiện giảng dạy các môn học liên quan trực tiếp đến hội nhập kinh tế quốc tế và luật lệ của WTO để có giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo trình, giáo án, tài liệu tham khảo;.
- có kế hoạch bổ sung những thiếu hụt cán bộ, chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi quyền và nghĩa vụ của Việt Nam trong khuôn khổ WTO..
- Đối với Việt Nam, khi chưa là thành viên của WTO thì đã có một số vụ tranh chấp thương mại phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân của các nước thành viên của WTO với các tổ chức, cá nhân của Việt Nam về những vấn đề thuộc diện điều chỉnh của WTO.
- Khi trở thành thành viên WTO thì khả năng phát sinh tranh chấp giữa Việt Nam với các thành viên khác của WTO không vì thế mà tự nó giảm thiểu hoặc bị triệt tiêu.
- WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp khá phức tạp và không phải lúc nào Việt Nam cũng có đủ khả năng để thắng kiện.
- Do vậy, yêu cầu giảm thiểu và tránh những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa Việt Nam với các nước thành viên khác của WTO là cấp thiết..
- b) Tổng quan về yêu cầu giảm thiểu và tránh những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa Việt Nam với các nước thành viên khác và giải pháp xử lý vấn đề.
- Các yếu tố và cơ chế tạo khả năng thích ứng của Việt Nam sau khi được gia nhập WTO trước tiên phải là các yếu tố và cơ chế tạo ra khả năng cho các cơ quan Nhà nước Việt Nam các cấp nói chung và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng thích ứng với WTO và cơ chế thị trường hiện đại, giảm thiểu những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam với các cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước thành viên khác..
- Theo kinh nghiệm quốc tế, trong điều kiện cụ thể của các nước có điều kiện và mức độ phát triển như Việt Nam, để giảm thiểu những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam với các cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước thành viên khác thì việc đổi mới tư duy lập pháp, tư duy tư pháp, đổi mới quan niệm công vụ, công chức và phương pháp, tác phong, cách thức xử lý các vấn đề pháp lý - kinh tế - chính trị của các cơ quan Nhà nước là hết sức quan trọng, cần chú ý trước tiên..
- Thực hiện thành công với bên ngoài các quyền và nghĩa vụ thành viên WTO cũng có nghĩa là thực hiện thành công đổi mới tư duy lập pháp, hành pháp, tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong nước, giảm thiểu các tranh chấp đối với Việt Nam..
- Trở thành thành viên WTO là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển của Việt Nam.
- Gia nhập WTO không chỉ tạo ra cho Việt Nam nhiều thách thức mà còn đưa đến cho Việt Nam nhiều cơ hội.
- Các cơ quan lập pháp Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách và đang vững bước đi lên.
- Chắc chắn các cơ quan lập pháp Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua được các thử thách đó để đạt nhiều thành tựu hơn trên bước đường hội nhập kinh tế quốc tế..
- [1] Hoàng Phước Hiệp (Chủ biên), Báo cáo tổng thuật kết quả rà soát, so sánh giai đoạn II (từ tháng 12/2001 đến tháng 4/2005) các văn bản pháp luật Việt Nam với yêu cầu của BTA và các quy định của WTO, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.38..
- [2] Hoàng Phước Hiệp, Nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện pháp luật Việt Nam phục vụ gia nhập WTO, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007..
- [3] Hoàng Phước Hiệp, Nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện pháp luật Việt Nam phục vụ gia nhập WTO, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr.174-251.