« Home « Kết quả tìm kiếm

Giới và quyền của phụ nữ


Tóm tắt Xem thử

- Tuy nhiên, vấn đề của phụ nữ không phải của riêng phụ nữ, cũng không phải của tất cả mọi người nói chung.
- Vấn đề của phụ nữ là cụ thể đối với mỗi gia đình, mỗi cấp chính quyền quan tâm tới việc làm và thu nhập, điều kiện lao động và môi trường sinh hoạt, sức khoẻ và học vấn của phụ nữ.
- Vấn đề phụ nữ là thiết thực đối với mỗi nhà quản lý có trách nhiệm và có ý thức cải thiện vị trí, vai trò của phụ nữ trong quản lý kinh tế xã hội.
- Vấn đề phụ nữ là rõ ràng đối với mỗi người chồng, người cha chăm lo đời sống gia đình và quan tâm nuôi dạy con cái ở thành thị cũng như nông thôn.
- Vấn đề phụ nữ là thời sự, là chiến lược đối với mỗi nhà lãnh đạo nhạy cảm với sự bình đẳng giới và công bằng trong xã hội..
- Xét từ góc độ luật pháp và các chính sách xã hội, nguyên nhân chủ yếu lý giải cho tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại trong xã hội bắt nguồn từ việc nhà nước thiếu một thể chế pháp lý đầy đủ, có hiệu lực thực thi và có lợi cho sự phát triển của phụ nữ..
- Trong hầu hết trường hợp, vai trò của nhà nước là tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho cả nam giới và phụ nữ.
- Hiện nay, nhiều quốc gia cố gắng kiểm soát sự sinh sản của phụ nữ thông qua các chương trình kế hoạch hoá gia đình.
- ở Trung Quốc, nhiều đàn ông trưởng thành không có khả năng lập gia đình vì số phụ nữ quá ít, “cung không đủ cầu”.
- Điều này dẫn đến tệ nạn lừa đảo và buôn bán phụ nữ - trẻ em.
- ở vùng nông thôn, một người phụ nữ có thể trở thành “tài sản chung” của mấy người đàn ông.
- Rõ ràng, chính sách của quốc gia có thể tác động tiêu cực tới cả phụ nữ và nam giới, trong đó phụ nữ là người đầu tiên phải chịu thiệt thòi.
- Tình trạng bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử với phụ nữ được thể chế hoá trong một số xã hội không chỉ thông qua luật pháp của quốc gia mà còn thông qua luật tục của cộng đồng (World Bank, 2001).
- Thậm chí trong một số xã hội, vấn đề phân biệt đối xử hay tình trạng bạo hành với phụ nữ do đàn ông gây ra còn được coi là hợp pháp (Kamla Bhashin, 2000).
- Những vấn đề cơ bản về giới và Quyền của phụ nữ..
- Giới là một khái niệm và là một phương pháp, giúp chúng ta hiểu về thực tiễn xã hội, qua mối quan hệ phổ biến giữa nam và nữ, phân tích được thực trạng, mức độ tham gia và hưởng lợi của nam giới và phụ nữ trong xã hội và những nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên.
- chỉ những khác biệt giới thuộc về sinh học, hoặc đồng nghĩa với khái niệm “phụ nữ.
- coi giới là mối quan tâm của phụ nữ và vì lợi ích riêng của phụ nữ.
- Giới không mang ý nghĩa là giới tính cũng không mang ý nghĩa là phụ nữ.
- Có thể điểm ra đây một số định nghĩa tiêu biểu về giới: ã “Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể.
- Nói cách khác, nói đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ giác độ xã hội”.
- ã “Giới là sự tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm và năng lực được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một nam giới hay một phụ nữ (hoặc một cậu bé hay một cô bé) trong một xã hội hay một nền văn hoá nhất định.
- ã “Giới là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ.
- Thuật ngữ giới đề cập đến những đặc tính và cơ hội về mặt kinh tế, xã hội, văn hoá và tâm lý gắn với việc là phụ nữ hay nam giới.
- Sinh ra đã được quy định là nam giới hay phụ nữ (mang tính bẩm sinh, di truyền, sinh học).
- Không tự nhiên có những phẩm chất, năng lực của phụ nữ hay nam giới (mang tính xã hội, do học tập từ gia đình và xã hội.
- Đồng nhất những đặc điểm giải phẫu, sinh lý tạo nên nam giới hay phụ nữ (ở mọi nơi đều giống nhau, ở mọi người nam và người nữ, trong mọi thời gian)..
- Đa dạng về các phẩm chất, năng lực hoặc kỳ vọng mà xã hội chờ đợi ở phụ nữ hay nam giới (khác nhau giữa các xã hội, vùng miền, các nền văn hoá.
- Không thể thay đổi: những đặc điểm sinh học tạo nên người đàn ông khó có thể xuất hiện ở phụ nữ (và ngược lại).
- Ví dụ: ã Chỉ phụ nữ mới sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ.
- Có thể thay đổi: những đặc điểm thường gán cho nam giới có thể xuất hiện ở phụ nữ (và ngược lại).
- Quyền của phụ nữ.
- Ngày Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn.
- Tinh thần của Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
- Các nội dung về bình đẳng được lần lượt quy định rõ ở 13 điều tiếp theo, từ Điều 4 đến Điều 16 và đề cập tới mọi khía cạnh đời sống của người phụ nữ.
- Quyền công dân và địa vị hợp pháp của phụ nữ được nêu rất chi tiết.
- Các quyền lợi cơ bản về chính trị không hề giảm đi kể từ khi Công ước về quyền chính trị của phụ nữ được thông qua vào năm 1952.
- Điều 8 quy định phụ nữ có cơ hội làm đại diện cho chính phủ ở cấp quốc tế và tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế.
- Công ước về Quốc tịch của phụ nữ đã kết hôn- thông qua năm 1957 - được tổng hợp trong Điều 9 nhằm nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ trong vấn đề quốc tịch, không lệ thuộc vào tình trạng hôn nhân.
- Lần lượt các Điều 10, 11 và 13 khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm, kinh tế và các hoạt động xã hội.
- Điều 14 đòi hỏi các quốc gia đưa những vấn đề đặc biệt của phụ nữ nông thôn và vai trò quan trọng của họ trong đời sống gia đình vào trong quá trình hoạch định chính sách.
- Cuối cùng, trong Điều 16, Công ước đề cập tới quan hệ hôn nhân và gia đình, khẳng định quyền bình đẳng và nghĩa vụ của phụ nữ và nam giới trong việc lựa chọn bạn đời, làm cha mẹ, quyền nhân thân và làm chủ mọi tài sản của mình..
- Trong phần mở đầu, Công ước tuyên bố vai trò của phụ nữ trong việc sinh đẻ không thể là cơ sở của sự phân biệt đối xử.
- Mối ràng buộc giữa phân biệt đối xử và vai trò sinh sản của phụ nữ là vấn đề thường xuyên được đề cập trong Công ước này.
- Trách nhiệm của xã hội là thúc đẩy các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện cho phụ nữ và nam giới có thể kết hợp thực hiện nghĩa vụ gia đình và công việc cơ quan (Điều 11.2c).
- Các biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm nhanh chóng thúc đẩy sự bình đẳng trên thực tế của phụ nữ và nam giới và bảo vệ người mẹ được thông qua "sẽ không bị coi là sự phân biệt đối xử" (Điều 4).
- Nhận thức được mối quan hệ tương hỗ này, Công ước nhấn mạnh: sự thay đổi vai trò truyền thống của nam giới cũng như của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội là cần thiết để đạt được sự bình đẳng đầy đủ giữa nam và nữ.
- Sự tham gia đầy đủ của phụ nữ cũng như việc trao quyền cho phụ nữ là một trong những nhân tố trọng tâm để giải quyết các vấn đề của xã hội.
- Không chính sách nào tăng cường các cơ hội giáo dục cho các thế hệ mai sau mạnh mẽ như các chính sách trao quyền cho phụ nữ.
- Vì vậy, có thể suy luận rằng nếu càng có nhiều phụ nữ tham gia vào quy trình hoạch định chính sách thì các chính sách xã hội càng phản ánh đầy đủ và chính xác lợi ích và nhu cầu của nữ giới.
- Với tư cách là sản phẩm xã hội, chính sách xã hội đối với phụ nữ phản ánh lợi ích và nguyện vọng của nữ giới.
- Chính sách đó nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển năng lực của mình trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới..
- Với phạm vi rộng và chung như vậy, cách hiểu “chính sách xã hội” ở đây mang tính tương đối, nhằm đề cập đến hệ thống các quy định pháp lý có tác động hoặc liên quan đến phụ nữ nói chung, cũng như một số nhóm phụ nữ nói riêng..
- Trong hệ thống các chính sách xã hội nói chung, chính sách đối với phụ nữ có thể coi là chính sách xã hội vì nó đề cập đến các quan hệ xã hội và điều chỉnh mối quan hệ giữa hai giới.
- Phụ nữ Việt Nam chiếm khoảng 49% lực lượng lao động xã hội, đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và phát triển đất nước.
- Phụ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo ngày càng tăng.
- Độc lập về kinh tế là điều kiện rất quan trọng tạo nên sự bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới và là mục tiêu số 1 trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
- Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của phụ nữ nông thôn liên tục tăng, từ 77,2% năm 2003 lên 80,2% năm 2005 và không có khoảng cách đáng kể so với nam giới..
- Năm 2005, trên 90% phụ nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế.
- Sức khỏe của phụ nữ khi mang thai và lúc sinh đẻ được chăm sóc chu đáo và cải thiện đáng kể.
- Tỷ lệ phụ nữ khi sinh được chăm sóc y tế ở mức trên 95% (trên 98% tại thành thị và đồng bằng)..
- Các Quỹ tín dụng thông qua Hội Liên hiệp phụ nữ được đánh giá là rất hiệu quả: tỷ lệ hoàn trả vốn trên 99%.
- Tính đến tháng 12/2006 có trên 10 triệu lượt phụ nữ nghèo được vay vốn sản xuất do Hội Liên hiệp Phụ nữ nhận ủy thác từ Ngân hàng Chính sách Xã hội của Nhà nước.
- coi việc nội trợ, chăm sóc con cái là của phụ nữ… Thời gian làm việc trung bình của nữ là 13 giờ/ngày trong khi của nam chỉ khoảng 9 giờ.
- Tỷ lệ phụ nữ có học hàm, học vị cao còn thấp nhiều so với nam giới..
- Một số điều khoản pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ không thực hiện được vì không có chế tài hoặc chế tài chỉ giới hạn ở mức phạt hành chính..
- Mặc dù tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý tăng đáng kể song vẫn còn thấp, chưa tương xứng với lực lượng phụ nữ trong xã hội.
- Việc chăm sóc sức khỏe đối với phụ nữ, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ dân tộc thiểu số chưa được tốt.
- Tình trạng ngược đãi phụ nữ trong gia đình vẫn tồn tại ở cả thành thị và nông thôn, trong tất cả các nhóm xã hội.
- Việc Luật bình đẳng giới có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 là một bước đi quan trọng về luật pháp, góp phần thúc đẩy bình đẳng nam-nữ và sự tiến bộ của phụ nữ ở Việt Nam..
- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng cần tăng cường vai trò là người đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của phụ nữ, đồng thời phải làm tốt chức năng phản biện xã hội về luật pháp, chính sách đối với phụ nữ..
- Quyền của phụ nữ về cơ hội kinh tế trong pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình.
- Tóm lại, pháp luật đảm bảo cho phụ nữ và nam giới quyền bình đẳng ngang nhau trong các giao lưu dân sự, công nhận năng lực pháp luật và hành vi dân sự của phụ nữ và nam giới như nhau, không hề hạn chế, phân biệt hay phủ nhận quyền bình đẳng của phụ nữ trong các quan hệ nhân thân cũng như quan hệ tài sản.
- Về quốc tịch: Theo Luật quốc tịch năm 1998, phụ nữ hoàn toàn bình đẳng với nam giới về cơ hội hưởng quốc tịch, thôi quốc tịch VN, không có bất cứ sự phân biệt, hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính..
- Đối với phụ nữ, quốc tịch còn là quyền nhân thân cơ bản gắn với việc đảm bảo công bằng và bình đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ..
- Trên thực tế, quyền bình đẳng của phụ nữ về tự do đi lại, tự do cư trú và lựa chọn chỗ ở vẫn chưa được đảm bảo.
- Vấn đề này có tác động nhất định đến việc tiếp cận các cơ hội bình đẳng về kinh tế của phụ nữ.
- Theo điều 57 của Hiến pháp, phụ nữ có quyền tự do kinh doanh như nam giới theo cùng một tiêu chuẩn và điều kiện.
- Trong trường hợp này, phụ nữ có quyền độc lập trong quản lý tài sản và được pháp luật bảo hộ..
- theo quy định của pháp luật cho phép phụ nữ có quyền độc lập, tự mình tham gia vào quá trình tố tụng tại toà án hoặc nhờ Luật sư bảo vệ quyền lợi của mình trước toà.
- Pháp luật đảm bảo quyền có tài sản riêng của phụ nữ trong thời kỳ hôn nhân.
- Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng cũng là một quy định nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân.
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng nhìn chung đã được đảm bảo.
- Theo điều 63 của Hiến pháp, Điều 36 của Bộ luật dân sự và từ điều 10 - 16 của Luật hôn nhân gia đình năm 1986, phụ nữ có quyền và bình đẳng với chồng trong quan hệ nhân thân và tài sản trong thời kỳ hôn nhân cũng như khi hôn nhân chấm dứt.
- ở VN, sau khi kết hôn người phụ nữ có quyền và trên thực tế vẫn giữ nguyên họ tên của mình, không phải mang họ tên chồng.
- Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội đang ngày càng được khẳng định và đề cao.
- Thực hiện quyền bình đẳng trong quan hệ tài sản, người phụ nữ có cơ hội tiếp cận với và hưởng thụ các nguồn lực kinh tế trong gia đình và ngoài xã hội.
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại khi thực hiện các quyền này.
- Từ thực tiễn thi hành pháp luật tại VN trong thời gian qua về vấn đề trên cho thấy, về cơ bản, người phụ nữ đã dành quyền bình đẳng với nam giới trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con, đặc biệt đối với con chưa thành niên.
- Quyền của phụ nữ trong Luật đất đai.
- Quyền của phụ nữ trong Luật lao động.
- Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của lao động nữ, nhằm bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và tránh cho phụ nữ không bị lâm vào tình trạng bóc lột, lạm dụng.
- ã Bình đẳng về cơ hội được đào tạo, bổ túc tay nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp cũng là đỏi hỏi chính đáng của phụ nữ khi tiếp cận cơ hội kinh tế trong điều kiện hiện tại.
- ã Quyền bình đẳng trong viêc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động của phụ nữ được pháp luật bảo hộ.
- Phụ nữ có quyền được chăm sóc y tế, hưởng chế độ trợ cấp lúc ốm đau và nghỉ ngơi chữa bệnh mà vẫn được hưởng lương.
- Điều này có tác dụng khuyến khích và thúc đẩy phụ nữ phát huy vai trò của mình trong công tác, lao động sản xuất.
- Tuy nhiên, nhà nước cần có biện pháp đánh giá thực trạng vấn đề này để có chính sách phù hợp, bảo đảm quyền của phụ nữ trong các khu vực kinh tế khác nhau..
- ã Chính sách ưu tiên đối với lao động nữ, bao gồm: không phân biệt đối xử với phụ nữ trong tuyển dụng, đào tạo, nâng bậ, nâng lương.
- Ngược lại, hệ thống hệ thống pháp luật và chính sách của nhà nước nên có một vài điều chỉnh để nâng cao hơn nữa vị thế và quyền của phụ nữ..
- ã Sửa đổi, bổ sung hợp lý các quy định tại Luật dân sự có liên quan đến phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng.