« Home « Kết quả tìm kiếm

HIỆN TRẠNG CANH TÁC VÀ TIỀM NĂNG SẢN XUẤT VÙNG ĐẤT PHONG HÓA TẠI CHỖ HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG


Tóm tắt Xem thử

- HIỆN TRẠNG CANH TÁC VÀ TIỀM NĂNG SẢN XUẤT VÙNG ĐẤT PHONG HÓA TẠI CHỖ HUYỆN TRI TÔN,.
- TỈNH AN GIANG.
- Huyện Tri Tôn tỉnh An Giang nằm ở phía Tây Nam đồng bằng sông Cửu Long với phần lớn diện tích đất là đồi núi nên sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
- Việc xác định được các trở ngại trong canh tác là vấn đề quan trọng góp phần cho việc quy hoạch và sử dụng đất đai hợp ly, hiệu quả trong vùng.
- Qua kết quả khảo sát đất tại 3 điểm điển hình và điều tra 60 hộ nông dân tại vùng nghiên cứu cho thấy các trở ngại chính trong sản xuất nông nghiệp bao gồm: canh tác chủ yếu nhờ vào nước mưa, thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô ở vùng đất cao và bị ngập lũ sâu ở vùng ruộng thấp.
- bón phân vô cơ chưa cân đối và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách.
- xây dựng hệ thống thủy lợi vùng cao là các hoạt động cần được thực hiện để nâng cao hiệu quả các mô hình canh tác và khai thác tiềm năng sử dụng đất, giúp cho việc sản xuất nông nghiệp được bền vững, góp phần tăng thu nhập cho người dân địa phương trong vùng đất Bảy núi thuộc huyện Tri Tôn và Tịnh Biên tỉnh An Giang..
- Từ khóa: hiện trạng canh tác, đất phong hóa tại chổ, canh tác nhờ mưa, vùng núi.
- Tỉnh An Giang là một tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, là một trong những tỉnh có diện tích đất canh tác lớn nhất trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
- Tổng diện tích đất nông nghiệp là 246.821 ha trong đó đất trồng lúa chiếm hơn 82%.
- Huyện Tri Tôn là huyện miền núi của tỉnh An Giang, trong đó người dân tộc chiếm đa số.
- 2 Ủy Ban nhân dân huyện Trị Tôn, tỉnh An Giang.
- Kinh tế của người dân địa phương chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp.
- Với các điều kiện tự nhiên và địa hình của vùng cao, sản xuất nông nghiệp tại huyện Tri Tôn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nguồn nước sử dụng trong trồng trọt.
- Bên cạnh đó, trình độ dân trí của người dân tại địa phương tương đối thấp, tập quán canh tác còn lạc hậu dẫn đến hiệu quả kinh tế còn thấp so với tiềm năng sản xuất nông nghiệp trong vùng.
- Vì vậy, “Khảo sát hiện trạng canh tác và đánh giá tiềm năng sản xuất trên vùng đất phong hoá tại chỗ huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang” là rất cần thiết nhằm đánh giá thực trạng canh tác và xác định các trở ngại, khó khăn chính trong sản xuất nông nghiệp.
- Đây là một trong những cơ sở để qui hoạch và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất và nước tại địa phương, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của người dân trong vùng (Nguyễn Thị Thùy Dương, 2010)..
- 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thời gian và vị trí nghiên cứu.
- Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn trên vùng đất canh tác chuyên lúa, chuyên màu và lúa - màu của xã Châu Lăng, Cô Tô và Ô Lâm thuộc huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
- 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1 Tiền dã ngoại.
- Phối hợp với các bộ phận của huyện, xã có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu thu thập, trao đổi số liệu và chọn điểm nghiên cứu.
- Tham khảo các báo cáo, bản đồ đơn tính và văn bản quy hoạch có liên quan đến vùng nghiên cứu..
- Hình: Vị trí hành chính các xã thuộc vùng nghiên cứu trong huyện Tri Tôn.
- Phỏng vấn 60 hộ nông dân, bao gồm chủ hộ canh tác nơi nghiên cứu và các hộ lân cận với nội dung chính như sau:.
- Lịch sử khai thác và sử dụng đất.
- Kỹ thuật canh tác và quản lý đất,.
- Năng suất và các yếu tố hạn chế đến năng suất và sức sản xuất của đất.
- 3.1 Quá trình khai thác và trồng trọt của vùng đất nghiên cứu.
- Cơ cấu cây trồng trong vùng nghiên cứu thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào giá bán và lợi nhuận..
- Xã Châu Lăng: Thời kỳ cây thuốc lá vàng có giá trị cao nên được nông dân trồng nhiều đến năm 1988 nông dân không trồng cây thuốc lá do bị lỗ nặng, hầu hết diện tích canh tác được chuyển sang trồng khoai mì, đậu xanh, đậu phộng.
- Giai đoạn cây khoai mì được trồng chủ yếu.
- Năm 1997 địa phương chủ trương phủ xanh đất trống đồi núi trọc và cấp đất cho nông dân trồng keo lá tràm, bạch đàn, dó bầu trên núi.
- Để gia tăng hiệu quả sử dụng đất rừng người dân địa phương trồng xen cây điều vào đất rừng.
- Hiện nay, phong trào trồng đậu xanh, dưa hấu, đậu phộng được nông dân hưởng ứng do có hiệu quả kinh tế cao..
- Xã Cô Tô: Năm 1944, cây trồng trong thời gian này là cây mì, lúa mùa, giai đoạn nông dân tập trung trồng gừng trên đất ruộng trên do vừa được lợi, vừa được giá, đầu tư thấp không cần sử dụng phân bón và các loại cây khác như cây mì, đậu xanh, đậu nành.
- Năm 1981 đến 1986, phong trào trồng tiêu, cây điều phát triển mạnh, nhưng năng suất hạt thấp, từ 1988 đến nay, cây trồng được nông dân quan tâm là lúa mùa, cây mè V6 và đậu phộng..
- Xã Ô Lâm: Giai đoạn dân cư còn thưa thớt, đa số là người dân tộc Khmer đến sinh sống, cây trồng chủ yếu là lúa mùa với các giống như So Thum, Nàng Nhen, Trắng Tép, Nha Lư, Bông Mây, gieo vào tháng 5 thu hoạch tháng 11..
- Từ năm 1995 đến 1996 người dân chủ yếu trồng khoai mì.
- Hiện nay, trồng đậu xanh, dưa hấu, đậu phộng, cây mè và rau dưa các loại mang lại hiệu quả kinh tế cao, lúa mùa giống Bông Sen, Nàng Nhen cũng được giá nên người dân trong xã đã áp dụng các mô hình canh tác này (Nguyễn Xuân Thảo, 2007)..
- 3.2 Hiện trạng canh tác vùng đất nghiên cứu.
- Vùng nghiên cứu gồm 3 xã miền núi thuộc huyện Tri Tôn, gồm Châu Lăng, Cô Tô và Ô Lâm có đến 80,4% dân số thuộc người Khmer, số hộ người Khmer chiếm 82%.
- Đây là vùng đất xám bạc màu nên đất nghèo chất dinh dưỡng, vùng ruộng trên nước lũ hàng năm không ngập đến nên việc canh tác lệ thuộc vào nước mưa, nguồn nước ngầm rất hạn chế nên chỉ trồng được một vụ lúa hoặc màu trong năm (Nguyễn Duy Cần, 2009).
- Chung quanh nhà người dân có trồng thêm tre, tầm vông, xoài thanh ca, dừa và một vài loại cây khác làm nguồn thu nhập phụ.
- Nguồn thu của nông hộ chỉ nhờ vào một vụ lúa hoặc rau màu và tăng thêm nhờ vào thu nhập từ các cây trồng trên đất thổ cư..
- một số rất ít hộ nông dân luân canh 1 vụ lúa - 1 vụ màu.
- Nhìn chung hệ thống canh tác của xã vẫn còn độc canh cây lúa..
- Xã Châu Lăng có diện tích đất tự nhiên 3.259,19 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 2.099,95 ha (diện tích canh tác đất ruộng trên là 220 ha, đất lâm nghiệp 628,82 ha, đất chuyên dùng 232,37 ha, đất ở 155,90 ha, đất hoang hóa chưa sử dụng 105,11 ha (Phòng Thống kê huyện Tri Tôn, 2008).
- Diện tích sử dụng và canh tác đất nông nghiệp trên địa bàn xã giảm rõ rệt.
- Năm 2005 tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 4.220 ha, đến năm 2009 còn 3.880 ha.
- Cây trồng chủ yếu: mè đen, dưa hấu, dưa leo, đậu xanh, đậu phộng, củ sắn, khoai mì, các giống lúa cao sản được gieo trồng chủ lực trong vùng: IR50404, OM2718, OM2517, OM2514, OM6073, OM4900, OM5629, OM3315, OM5930, OM4668, OM2395, MTL384 và Jasmines, các giống lúa mùa được trồng và phát triển bao gồm: Nàng Tây Đùm, Bông Sen, Nàng Pha, Chệt Cụt, Nàng Nhen, Tàu Binh, Ba Sào.
- Người dân thường chọn giống dựa trên tiêu chí kháng bệnh, thích nghi vùng đất canh tác và năng suất cao..
- Bảng 1: Các loại cây trồng chủ lực của xã Châu Lăng năm 2009 Loại cây trồng Diện tích.
- Rau dưa các loại (dưa leo, bí đao chủ yếu).
- Xã Cô Tô.
- Xã Cô Tô có diện tích đất tự nhiên 4.233,55 ha, trong đó diện tích đất.
- nông nghiệp 3.195,73 ha (diện tích canh tác đất ruộng trên là 248 ha, đất lâm nghiệp 349,34 ha, đất chuyên dùng 315,78 ha, đất ở 186,31 ha, đất hoang hóa chưa sử dụng chiếm 179,97 ha (Phòng Thống kê huyện Tri Tôn, 2008).
- phía Tây hương lộ 15 địa hình cao dần và giáp chân núi Cô Tô, phần lớn diện tích canh tác là lúa 2 vụ phần đất còn lại trồng lúa 1 vụ do ở gần chân núi với địa hình cao, độ dốc lớn khó khăn cho canh tác nhất là trong mùa khô..
- Bảng 2: Các loại cây trồng chủ lực của xã Cô Tô năm 2009 Loại cây trồng Diện tích.
- Diện tích sử dụng và canh tác đất nông nghiệp trên địa bàn xã tăng đều hàng năm..
- Năm 2005 tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 5.790 ha, đến năm ha.
- Xã Ô Lâm có diện tích đất tự nhiên là 3.001,11 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 2.249,63 ha (diện tích canh tác đất ruộng trên là 1.120 ha, đất lâm nghiệp 426,41 ha, đất chuyên dùng 158,96 ha, đất ở 156,50 ha (Phòng Thống kê huyện Tri Tôn, 2008)..
- Với đặc điểm địa hình khá đặc biệt này nên canh tác lúa 2 vụ chủ yếu ở phần đất phía Nam kênh Ninh Phước I, phần đất cặp hương lộ 15 có địa hình cao nên chỉ canh tác được một vụ lúa.
- Năm 2005 tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 3.070 ha, đến năm 2009 tăng đến 4.404,2 ha.
- Bảng 3: Các cây trồng chủ lực của xã Ô Lâm năm 2009 Loại cây trồng Diện tích.
- Rau dưa các loại (khoai mì, khoai lang chủ yếu).
- Do có địa hình đa dạng và chia cắt mạnh, bao gồm đồi núi với diện tích trồng rừng tương đối lớn, trong đó một phần diện tích thuộc ruộng trên hằng năm nông dân trồng lúa một vụ, hay trồng đậu xanh, rẫy mì.
- Ở đồng bằng (ruộng bưng) trồng lúa hai vụ, một số loại hoa màu khác bước đầu đem lại hiệu quả tương đối cao góp phần vào nguồn thu tương đối ổn định cho nông dân.
- Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, ở vùng đất cao thường thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô, ở vùng ruộng thấp lại chịu ngập lũ trong mùa nước nổi do đó đã gây không ít khó khăn cho nông dân trong việc sản xuất..
- 3.3 Sinh thái nông nghiệp vùng nghiên cứu.
- Trên cơ sở địa hình, thủy văn, điều kiện đất đai và hiện trạng canh tác, vùng nghiên cứu có thể chia thành 4 vùng sinh thái nông nghiệp có đặc điểm khác nhau khá rõ rệt:.
- Vùng phía trên núi: với độ cao 571 m, nhiệt độ mát hơn thích hợp với cây trồng chịu lạnh như dó bầu, cây ăn trái.
- Độ sâu tầng đất canh tác rất thay đổi, có nơi rất mỏng cạn hơn 0,3 m (triền dốc đá), có nơi sâu trên 3 m (dọc theo triền suối hoặc thung lũng).
- Nước tưới cho cây trồng rất khó khăn, canh tác chủ yếu nhờ vào nước mưa, ngoại trừ những nơi gần suối có thể bơm nước bằng ống dây hoặc mương máng nồi..
- Cây trồng chủ yếu lá lúa, ít diện tích luân canh với cây họ đậu hoặc rau cải, dưa các loại..
- 3.4 Đặc điểm canh tác và tiềm năng sản xuất của vùng đất nghiên cứu.
- Hoạt động trồng trọt, tập quán canh tác tại các điểm nghiên cứu được thống kê và trình bày ở bảng 4 dưới đây theo tỷ lệ hộ nông dân áp dụng:.
- Bảng 4: Hoạt động trồng trọt của vùng nghiên cứu qua điều tra 60 hộ nông dân Chuẩn bị làm đất Sức kéo động vật Cơ giới hóa (các.
- Luân canh cây trồng.
- Với đặc điểm canh tác nêu ở bảng 4 và kết hợp với năng suất và sản lượng các loại cây trồng chính được trình bày ở bảng 1, 2 và 3 mục 3.2 cho thấy, nguyên nhân chủ yếu làm cho hiệu quả sản xuất nông nghiệp trong vùng thấp là do phần lớn diện tích đất nông nghiệp chỉ sản xuất 1 vụ do thiếu nước tưới, năng suất không cao do đất bị kiệt màu, nông dân có trình độ thấp về kỹ thuật canh tác do đa số là người dân tộc khmer có trình độ học vấn thấp, trồng trọt theo truyền thống, thiếu lao động, giá cả vật tư tăng cao, thiếu giống mới và sâu bệnh.
- Qua số liệu điều tra về tiềm năng sản xuất của đất và điều kiện thực tế đồng ruộng, các vấn đề người dân địa phương quan tâm nhất cho sản xuất nông nghiệp trong vùng, để có thể khai thác hiệu quả tiềm năng và sức sản suất thực tế của đất đai trong vùng là: (1) hệ thống tưới tiêu phục vụ sản xuất trong mùa khô, (2) cải thiện độ phì nhiêu của đất, (3) chọn cây trồng phù hợp từng mùa vụ, (4) hỗ trợ về tập huấn kỹ thuật canh tác, và (5) cung cấp các giống cây trồng mới kháng sâu bệnh và cho năng suất cao..
- Kết quả điều tra cho thấy, biện pháp canh tác của nông dân cũng có một số mặt tích cực và tiêu cực được trình bày trong bảng 5:.
- Bảng 5: Đánh giá hoạt động canh tác vùng đất nghiên cứu Hoạt động.
- canh tác Tích.
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
- Cây trồng chủ yếu trong vùng nghiên cứu là lúa rẩy (1 vụ/năm) vào mùa mưa, ngoài ra, nông dân còn trồng một số cây rau màu như: đậu phộng, đậu xanh, mè, rau dưa các loại vào đầu mùa mưa.
- Năng suất cây trồng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp trong vùng thấp, người dân địa phương canh tác theo truyền thống, chưa ứng dụng nhiều các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Ngày nay, giao thông nông thôn thuận lợi, thông tin kỹ thuật được phổ biến nhiều trên các phương tiện đại chúng, chương trình khuyến nông, các cuộc hội thảo về kỹ thuật canh tác, kỹ thuật sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, kỹ thuật chọn giống cây trồng cũng được tổ chức đã góp phần hỗ trợ tích cực cho việc sản xuất nông nghiệp trong vùng..
- Để khai thác và sử dụng đất hiệu quả hơn trên vùng đất phong hóa tại chỗ canh tác nhờ mưa, góp phần tăng sản lượng lúa của vùng và nâng cao thu nhập người dân địa phương, các vấn đề sau đây cần được quan tâm thực hiện: xây dựng hệ thống thủy lợi vùng cao để có đủ nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt, nhất là vào mùa khô.
- tăng cường và đẩy mạnh công tác khuyến nông, tập huấn kỹ thuật canh tác, trình diễn các mô hình sản xuất hiệu quả cho người dân địa phương..
- Cục Thống kê tỉnh An Giang, 2005.
- Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2005.
- Ủy ban nhân dân Tỉnh An Giang..
- Cục Thống kê tỉnh An Giang, 2008.
- Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2008.
- Công nghệ An Giang.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng các hệ thống canh tác và đề xuất các giải pháp chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng bền vững cho các huyện biên giới Tây nam bộ: Trường hợp Huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, An Giang.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ..
- Khảo sát hiện trạng canh tác và đánh giá khả năng giữ nước của đất trên vùng đất phong hóa tại chỗ huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
- Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ..
- Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn.