« Home « Kết quả tìm kiếm

Khảo sát khả năng bảo vệ gan của cao methanol lá Mơ Leo (Paederia scandens L.) trên chuột tổn thương gan bằng carbon tetrachloride


Tóm tắt Xem thử

- KHẢO SÁT KHẢ NĂNG BẢO VỆ GAN CỦA CAO METHANOL LÁ MƠ LEO (Paederia scandens L.) TRÊN CHUỘT TỔN THƯƠNG GAN.
- Bảo vệ gan, carbon.
- After one hour taking CCl 4 by oral administration, mice were treated with methanol leaf extract of skunkvine at different concentrations of 100, 200, and 400 mg/kg body weight.
- The hepatoprotective effects of leaf extract of skunkvine were similar to those of silymarin at dose of 16 mg/kg BW..
- Observation of the microscopic cross section of liver tissue also revealed that the mice treated with leaf extract of skunkvine at dose 200 and 400 mg/kg body weight had significantly improvement in liver tissues compared to the non-treated control group..
- Hiệu quả bảo vệ gan của cao lá Mơ Leo - LML (Paederia scandens L.) được khảo sát trên chuột tổn thương gan bằng carbon tetrachloride (CCl 4.
- Hiệu quả bảo vệ gan của cao LML được khảo sát bằng cách cho chuột uống cao LML ở các nồng độ 100, 200 và 400 mg/kg trọng lượng chuột sau 1 giờ uống CCl 4 .
- Hiệu quả bảo vệ gan của cao LML có thể so sánh tương đương với sylimarin liều 16 mg/kg trọng lượng chuột.
- Quan sát tiêu bản hiển vi lát cắt ngang gan chuột cho thấy mô gan của nhóm chuột được điều trị bằng cao LML nồng độ 200 và 400 mg/kg cải thiện đáng kể so với nhóm chuột không được điều trị..
- Khảo sát khả năng bảo vệ gan của cao methanol lá Mơ Leo (Paederia scandens L.) trên chuột tổn thương gan bằng carbon tetrachloride.
- Tuy nhiên, các nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan của Mơ Leo còn hạn chế..
- Đối tượng thí nghiệm là chuột nhắt trắng (Mus musculus var Albino) khỏe mạnh, trọng lượng từ 20–25 g do Viện Pasteur–Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp, được nuôi ở phòng thí nghiệm Bộ môn Sinh học, Khoa Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Cần Thơ ở nhiệt độ phòng và chu kỳ sáng tối 12/12 giờ..
- Khảo sát khả năng bảo vệ gan của cao LML trên mô hình chuột gây tổn thương gan bằng CCl 4.
- Thí nghiệm khảo sát hoạt tính bảo vệ gan của cao LML được tiến hành theo phương pháp của Kang and Koppula (2014) có hiệu chỉnh.
- Sử dụng CCl 4 liều 2,5 mL/kg trọng lượng chuột (CCl 4 pha trong dầu olive theo tỉ lệ 1:4) gây nhiễm độc gan và tinh chất silymarin liều 16 mg/kg trọng lượng chuột làm thuốc bảo vệ gan đối chứng.
- Cao LML được khảo sát các liều mg/kg trọng lượng chuột.
- Nhóm 1: Chuột uống nước cất.
- Nhóm 2: Chuột uống 2,5 mL/kg DMSO 1%/ lần/ ngày.
- Nhóm 3: Chuột uống 2,5 mL/kg CCl 4 / lần/.
- Nhóm 4: Chuột uống 2,5 mL/kg CCl 4 / lần/.
- ngày, sau 1 giờ uống 16 mg/kg silymarin/ lần/ ngày.
- Nhóm 5: Chuột uống 2,5 mL/kg CCl 4 / lần/.
- ngày, sau 1 giờ uống 100 mg/kg cao LML / lần/.
- Nhóm 6: Chuột uống 2,5 mL/kg CCl 4 / lần/.
- ngày, sau 1 giờ uống 200 mg/kg cao LML / lần/.
- Nhóm 7: Chuột uống 2,5 mL/kg CCl 4 / lần/.
- ngày, sau 1 giờ uống 400 mg/kg cao LML / lần/.
- Hiệu suất làm giảm enzyme gan = ((AST/ALT nhóm uống CCl 4 – AST/ALT nhóm uống cao)/ (AST/ALT nhóm uống CCl 4 – AST/ALT nhóm bình thường))×100..
- 3.1 Kết quả khảo sát khả năng bảo vệ gan của cao LML trên mô hình chuột gây tổn thương gan bằng CCl 4.
- Sự gia tăng trọng lượng ở các nhóm chuột thí nghiệm được thể hiện trong Bảng 1.
- Kết quả cho thấy tất cả các nhóm chuột sau 4 tuần thí nghiệm đều có sự gia tăng trọng lượng.
- (6,03±3,97 g) có thể do chuột không chịu tác động từ hóa chất nên chuột phát triển và tăng trọng lượng bình thường.
- Trong khi ở nhóm chuột uống CCl 4 , giai đoạn đầu do tác động của chất gây độc gan CCl 4 chuột bị lừ đừ ít hoạt động và ăn ít, nhưng sau một tuần chuột hoạt động bình thường sau mỗi lần uống nên vẫn tăng trọng.
- (2014), sự gia tăng trọng lượng nhóm chuột uống CCl 4 ít hơn nhóm chuột uống nước cất.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy sự gia tăng trọng lượng nhóm chuột uống CCl g) cũng ít hơn nhóm chuột uống nước cất g)..
- Bảng 1: Sự gia tăng trọng lượng (g) ở các nhóm chuột sau thí nghiệm.
- Nhóm chuột thí nghiệm Trọng lượng gia tăng (g).
- Nhóm 1 Chuột uống nước cất 7,06±0,84 a.
- Nhóm 2 Chuột uống DMSO abc.
- Nhóm 3 Chuột uống CCl abc.
- Nhóm 4 Chuột uống CCl 4 , silymarin 5,55±4,20 abc.
- Nhóm 5 Chuột uống CCl 4 , cao LML 100 mg/kg 2,38±2,21 c Nhóm 6 Chuột uống CCl 4 , cao LML 200 mg/kg 2,75±1,55 c Nhóm 7 Chuột uống CCl 4 , cao LML 400 mg/kg 3,78±4,93 abc.
- Đối với các nhóm chuột uống CCl 4 và cao LML, sự gia tăng trọng lượng chuột ở nồng độ 100 mg/kg (nhóm 5) tăng 2,38±2,21 g, tăng 2,75±1,55 g tại nồng độ 200 mg/kg (nhóm 6) và tăng 3,78±4,93 g tại nồng độ 400 mg/kg (nhóm 7).
- tăng trọng lượng, nhưng sự gia tăng trọng lượng giữa các nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê..
- Gan chuột uống nước cất (Hình 1A) và gan chuột uống DMSO 1% (Hình.
- Trong khi đó, nhóm chuột uống CCl 4 (Hình 1C) gan đã bị tổn thương, kích thước lớn do tế bào gan phình to, bề mặt gan gồ ghề, xơ dai.
- Riêng nhóm chuột cho uống CCl 4.
- Bề mặt gan chuột điều trị bằng silymarin hơi gồ ghề so với nhóm chuột bình thường nhưng so với nhóm gây bệnh CCl 4 thì mức độ tổn thương đã giảm rõ.
- Ở nhóm gây bệnh bằng CCl 4 được điều trị bằng cao LML, gan được cải thiện đáng kể so với nhóm uống CCl 4.
- Gan của nhóm chuột gây bệnh được điều trị bằng cao LML ở các nồng độ 100 mg/kg, 200 mg/kg và 400 mg/kg so với nhóm chuột bình thường khác biệt không nhiều.
- Màu sắc gan ở nồng độ 100 mg/kg (Hình 1E) và 200 mg/kg (Hình 1F) tuy nhạt màu hơn nhóm bình thường, nhưng bề mặt gan đã giảm sự ghồ ghề và ở nồng độ 400 mg/kg (Hình 1G), màu sắc gan kể cả độ.
- láng và các đặc điểm hình thái rất giống với nhóm chuột bình thường..
- Kết quả có thể dẫn đến thay đổi hình thái gan nhóm chuột được gây bệnh bằng CCl 4 .
- Refaey et al., 2015).
- Silymarin có thể bảo vệ được tế bào gan khỏi tổn thương do CCl 4 gây ra nhờ vào hoạt tính kháng oxy hóa (Duong et al., 2016).
- Cao LML có lẽ cũng sở hữu hoạt tính chống oxy hóa nên có khả năng bảo vệ gan.
- Do đó, việc điều trị bằng silymarin và cao LML đã cải thiện được hình thái gan chuột thí nghiệm..
- Hình 1: Hình thái bên ngoài của gan chuột thí nghiệm.
- (A) Chuột uống nước cất.
- (B) Chuột uống DMSO 1%.
- (C) Chuột uống CCl 4 .
- (D) Chuột uống silymarin.
- (E) Chuột uống cao LML 100 mg/kg.
- (F) Chuột uống cao LML 200 mg/kg.
- (G) Chuột uống cao LML 400 mg/kg.
- 3.2 Kết quả khảo sát khả năng làm hạ enzyme gan của cao LML.
- Kết quả cho thấy nhóm chuột uống DMSO 1%, hàm lượng enzyme ALT và AST khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức 5% so với nghiệm thức chuột bình thường được uống nước cất, chứng tỏ DMSO 1% không gây ảnh hưởng đến hàm lượng enzyme gan ALT và AST trong huyết thanh chuột trong quá trình thử nghiệm..
- Nhóm chuột được gây tổn thương gan bằng CCl 4 có hàm lượng enzyme transaminase trong máu cao tương ứng với ALT là 921,2±375 U/L và AST là U/L, khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với các nhóm còn lại.
- So với nhóm chuột bình thường, hàm lượng enzyme ALT của nhóm chuột bị tổn thương gan bằng CCl 4 cao hơn 26,8 lần và hàm lượng AST cao hơn 8,2 lần.
- Như vậy, khi cho chuột uống CCl 4 trong dầu olive (nồng độ CCl 4 20%) liều 2,5 mL/kg, trọng lượng chuột trong 4 tuần có tác dụng làm tổn thương gan đáp ứng được yêu cầu dùng làm nhóm đối chứng bệnh cho nghiên cứu..
- Bảng 2: Hàm lượng enzyme gan (U/L) và hiệu suất bảo vệ gan chuột.
- sau 4 tuần thí nghiệm.
- Khi chuột được uống CCl 4 và uống thêm silymarin liều 16 mg/kg trọng lượng chuột, hàm lượng các enzyme ALT, AST trong máu giảm so với nhóm đối chứng bệnh lần lượt là U/L và U/L.
- So với nghiệm thức chuột bình thường, hàm lượng ALT và AST còn cao nhưng đã có hiệu quả làm giảm đáng kể hàm lượng ALT và AST trong huyết thanh so với nhóm đối chứng bệnh, hiệu suất giảm enzyme ALT của silymarin là 91,1% và AST là 92,7 % chứng tỏ silymarin 16 mg/kg trọng lượng chuột có hiệu quả trong việc bảo vệ gan chuột khỏi tổn thương do CCl 4 gây ra..
- Các nhóm chuột uống CCl 4 và uống thêm cao LML với liều 100, 200 và 400 mg/kg trọng lượng chuột, hàm lượng enzyme ALT và AST thay đổi và giảm dần khi tăng nồng độ cao chiết (Bảng 2).
- Khi sử dụng liều 100 mg/kg trọng lượng chuột, cao LML làm giảm hàm lượng ALT và AST đáng kể so với nhóm đối chứng bệnh, hiệu suất giảm ALT là 91,6% và AST là 94,2%, kết quả này tương đương với nhóm chuột uống silymarin.
- Nhóm chuột uống CCl 4 và uống cao LML liều 200 mg/kg trọng lượng chuột thì hàm lượng enzyme ALT và AST trong máu giảm thấp hơn ở liều 100 mg/kg trọng lượng chuột, hiệu suất giảm ALT và AST lần lượt là 93,5% và 98%.
- Ở nhóm chuột uống CCl 4 và uống cao LML liều 400 mg/kg trọng lượng chuột có tác dụng làm giảm hàm lượng enzyme ALT và AST hiệu quả nhất, hiệu suất giảm ALT là 95,2%.
- So với kết quả nghiên cứu trên cao chiết ethanol Mơ Leo (Paederia scandens) được khảo sát hiệu quả bảo vệ gan trên mô hình chuột được tiêm CCl 4 , ở nồng độ cao chiết 200 mg/kg có hiệu quả làm enzyme AST giảm 64% và đối với enzyme ALT giảm 65% và ở nồng độ 400mg/kg có hiệu quả làm enzyme AST giảm 82% và đối với enzyme ALT giảm 74% (Uddin et al., 2011)..
- Từ kết quả trên, cao LML có khả năng làm giảm hàm lượng enzyme ALT và AST trong huyết thanh khá tốt, ở liều 400 mg/kg trọng lượng chuột có thể làm giảm hàm lượng enzyme ALT và AST về gần với nhóm chuột bình thường..
- 3.3 Kết quả quan sát mô bệnh học gan chuột thí nghiệm.
- Ở các lát cắt gan chuột uống CCl 4 (đối chứng bệnh) có sự thay đổi cấu trúc so với gan bình thường (Hình 2B).
- Ngược lại, các nghiệm thức uống CCl 4 và uống thêm silymarin hoặc cao chiết phục hồi được kiến trúc tế bào gan.
- Nhóm chuột uống CCl 4 và uống silymarin (Hình 2C) có các tế bào gan xếp thành dãy hướng tĩnh mạch, quan sát được xoang gan.
- Nhóm chuột uống CCl 4 và uống thêm cao LML liều 100, 200 và 400 mg/kg trọng lượng chuột đều có dấu hiệu phục hồi của tế bào gan.
- Đối với nhóm chuột uống CCl 4 được điều trị bằng cao LML liều 100 mg/kg trọng lượng chuột, trong gan các tế bào không nhân đã giảm cũng như các giọt lipid trong các tế bào đã giảm nhiều nhưng vẫn còn nhiều tổ Nghiệm thức.
- CCl 4 + silymarin 16mg/kg 113,6 b bc c ±3 92,7 b ±11,1 CCl 4 + cao LML 100 mg/kg 109,3 b bc c ±3,1 94,2 b ±7,9 CCl 4 + cao LML 200 mg/kg 92,2 c ±38,3 193 c b ±4,3 98 a ±9,1 CCl 4 + cao LML 400 mg/kg 77,6 c c b ±4,1 99 a ±5,6.
- Ở nhóm chuột uống CCl 4.
- được điều trị bằng cao LML liều 200 mg/kg trọng lượng chuột, nhân tế bào gan tròn đều, giảm sự tích trữ các giọt lipid trong các tế bào, quan sát được hướng của các dãy gan tỏa ra từ tĩnh mạch.
- Ở nhóm chuột uống CCl 4 được điều trị bằng cao LML liều 400 mg/kg trọng lượng chuột, mô gan được cải thiện tương tự liều 200 mg/kg (Hình 2F)..
- Hình 2: Vi phẫu gan ở các nhóm chuột thí nghiệm nhuộm Hematoxylin và Eosin được quan sát dưới.
- 2–Dãy tế bào gan.
- (C) Chuột tổn thương gan uống silymarin.
- (D) Chuột tổn thương gan uống cao LML 100 mg/kg.
- (E) Chuột tổn thương gan uống cao LML 200 mg/kg.
- (F) Chuột tổn thương gan uống cao LML 400 mg/kg..
- Từ các kết quả về hàm lượng enzyme AST, ALT trong huyết thanh chuột và cấu trúc vi thể mô gan chuột sau 4 tuần thí nghiệm, ở liều 200 và 400 mg/kg trọng lượng chuột, cao LML có khả năng bảo vệ gan chống lại các tổn thương trên gan chuột do CCl 4 gây ra tương đương thuốc bảo vệ gan silymarin liều 16 mg/kg trọng lượng..
- Các số liệu trong nghiên cứu này đã chứng minh rằng cao LML có khả năng bảo vệ gan chống lại tổn thương do CCl 4 gây ra khá tốt.
- Tại các nồng độ được khảo sát, cao LML đều cho thấy có khả năng làm giảm hàm lượng enzyme ALT, AST hiệu quả.
- Bên cạnh đó, việc sử dụng cao LML cũng giúp cải thiện được cấu trúc mô học gan chuột thí nghiệm.