« Home « Kết quả tìm kiếm

Kiến thức, thái độ và thực tiễn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của nông dân trồng rau ở tỉnh Thừa Thiên Huế


Tóm tắt Xem thử

- DOI:10.22144/ctu.jvn.2019.106 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT.
- Canh tác rau xanh, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, ý thức và thái độ.
- Nghiên cứu nhằm điều tra tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sử dụng trong canh tác rau màu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, sử dụng cách tiếp cận thực hành xã hội.
- Tất cả các hộ được phỏng vấn đều có sử dụng thuốc trừ sâu trong canh tác rau xanh.
- Có đến 20 hoạt chất khác nhau đang được sử dụng với từ 3 đến 5 loại được dùng trong một vụ rau, đi cùng với việc sử dụng quá liều chỉ dẫn.
- Độ tuổi, trình độ học vấn hay giới tính không phải là yếu tố quyết định đến việc sử dụng thuốc BVTV của nông dân.
- Việc thực hành sử dụng thuốc BVTV chủ yếu theo kinh nghiệm và truyền miệng.
- Rất ít người nông dân có kiến thức về độc tính của thuốc BVTV mà họ đang sử dụng cũng như ý thức về bảo vệ môi trường, thể hiện qua việc sử dụng bảo hộ lao động không đầy đủ, bảo quản và thải loại bao bì thuốc bừa bãi, tạo ra các mối nguy cơ tác động đến môi trường sống và chính sức khỏe của bản thân họ..
- Kiến thức, thái độ và thực tiễn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của nông dân trồng rau ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Tuy nhiên, bên cạnh tăng trưởng kinh tế, có rất nhiều vấn đề xã hội nảy sinh đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường và những nguy cơ về sức khỏe mà người sử dụng thuốc BVTV và người tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp phải đối mặt.
- Nhiều công bố trên thế giới đã cảnh báo những rủi ro sức khỏe cho con người khi bị phơi nhiễm thuốc BVTV (Jeyanthi and Kombairaju, 2005.
- Việc lạm dụng thuốc BVTV, sử dụng sai quy tắc và thải loại thiếu kiểm soát đã được công bố ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các khu vực và quốc gia phát triển kinh tế nông nghiệp (Ngowi et al., 2007;.
- Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu trong vòng hai thập kỷ trở lại đây cũng cho thấy việc sử dụng cũng như bảo quản, thải loại thuốc BVTV bừa bãi, không đúng kỹ thuật và thiếu kiểm soát của nông dân vẫn diễn ra ở nhiều nơi.
- Đa số các nghiên cứu này thực hiện ở đồng bằng sông Hồng (Thuy et al., 2013.
- Cho đến nay, số lượng nghiên cứu khoa học về tình hình sử dụng thuốc BVTV ở Thừa Thiên Huế và những nguy cơ rủi ro cho người sử dụng ở khu vực này rất hạn chế.
- trạng thiếu an toàn thực phẩm và ngộ độc do phơi nhiễm thuốc BVTV..
- Nghiên cứu này không thực hiện ở các đồng bằng lớn ở phía Bắc hay phía Nam, nơi có quy trình sản xuất rau xanh hiện đại, trên diện rộng (đã có nhiều công bố) mà tập trung miêu tả thực trạng sử dụng thuốc BVTV trong canh tác rau xanh của các hộ nông dân trồng rau nhỏ lẻ ở tỉnh Thừa Thiên Huế..
- Nghiên cứu đồng thời tìm hiểu nhận thức của người nông dân về những nguy hại của thuốc BVTV đối với môi trường và sức khỏe của người sử dụng thuốc.
- Để đáp ứng hai mục tiêu trên, nghiên cứu tiến hành (1) tìm hiểu đặc điểm kinh tế xã hội của người trồng rau nhỏ lẻ và việc canh tác rau của họ cũng như (2) Kiến thức và các thực hành của người nông dân đối với thuốc BVTV và (3) Ý thức và thái độ của người người nông dân đối với những nguy cơ mà thuốc BVTV có thể gây ra cho môi trường và sức khỏe con người..
- 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận thực hành xã hội (social pratices approach) để điều tra tình hình sử dụng thuốc BVTV ở địa bàn nghiên cứu..
- Việc sử dụng thuốc BVTV của người nông dân được phân tích trong nghiên cứu này được xem như là một thực hành xã hội..
- Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất, chọn mẫu phân tầng theo cụm qua 4 giai đoạn: i) chọn một số xã của các huyện được đề xuất nghiên cứu.
- tra có nhiều khả năng gặp được đối tượng (Taherdoost, 2005) và theo đề xuất của cán bộ khuyến nông xã dựa trên danh sách hộ gia đình có trồng rau trong xã với tiêu chí là hộ có diện tích canh tác lớn trên 500 m 2 và nông dân tham gia phỏng vấn là người trực tiếp canh tác rau màu của hộ..
- Phương pháp này sẽ được sử dụng song song với phương pháp khảo sát nhằm thu thập các thông tin chi tiết, cụ thể mà bảng hỏi không thể lấy được..
- Kỹ thuật thu thập thông tin được sử dụng là phỏng vấn bán cấu trúc: Công cụ là bản hướng dẫn phỏng vấn theo các chủ đề mở về thực trạng sử dụng thuốc BVTV và kiến thức, thái độ của người nông dân về những nguy cơ mà thuốc BVTV có thể gây ra cho môi trường và sức khỏe của người sử dụng thuốc..
- Nông dân được lựa chọn phỏng vấn bán cấu trúc là người có đủ trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng liên quan đến vấn đề nghiên cứu đồng thời nhiệt tình tham gia và cung cấp đủ thông tin trong quá trình phỏng vấn..
- Địa bàn nghiên cứu.
- Ảnh hưởng của các nhóm đối tượng nghiên cứu đến thực hành sử dụng thuốc và ý thức đối với thuốc BVTV được kiểm định qua phân tích ANOVA một chiều..
- A: Liều lượng hoạt chất trung bình được sử dụng trên mỗi ha (kg/ha).
- Ap: Lượng hoạt chất trung bình được sử dụng trên mỗi ha đối với từng sản phẩm thương mại (kg/ha).
- Mi: khối lượng (kg) hoặc thể tích (L) của thuốc thương mại sử dụng cho mỗi ha của từng hộ.
- n: tổng số hộ có sử dụng loại hoạt chất đang được tính..
- 3.1 Người nông dân và việc canh tác rau xanh nhỏ lẻ.
- Những người nông dân trong mẫu khảo sát là những người trực tiếp canh tác rau xanh, đa số có tuổi đời trên 40 tuổi (chiếm 90%) (Hình 1) và tập trung nhiều nhất ở nhóm tuổi trên 50 và có đến 27%.
- Hình 1: Độ tuổi của người nông dân Hình 2: Trình độ học vấn của nông dân (n = 155) (n = 155).
- Đa số người nông dân được hỏi có trình độ học vấn trung học cơ sở và tiểu học (chiếm 85%, Hình 2).
- Bảng 1: Các loại rau được canh tác chủ yếu tại địa bàn nghiên cứu STT Loại rau xanh.
- Hộ nông dân trồng Quảng Thành.
- 3.2 Kiến thức và các thực hành của người nông dân đối với thuốc BVTV.
- Theo kết quả khảo sát, tất cả các hộ được phỏng vấn đều có sử dụng thuốc trừ sâu trong canh tác rau xanh.
- Các loại thuốc BVTV rất đa dạng và có thể được xếp vào ba nhóm: thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và thuốc trừ nấm bệnh cho cây trồng (Bảng 2)..
- Trong số các thuốc BVTV được sử dụng ở các xã nghiên cứu, chỉ có 28% thuốc được sử dụng thuộc dạng thuốc có nguồn gốc sinh học, còn lại là thuốc dạng tổng hợp.
- Tỉ lệ thuốc trừ sâu nguồn gốc sinh học sử dụng ít hơn đáng kể so với khu vực trồng rau ở ĐBSCL (56%, Bùi Thị Nga và Lâm Quốc Việt, 2010).
- Đây là các thuốc có đặc tính chọn lọc cao, độc tính tức thì mạnh nhưng lại phân hủy nhanh trong môi trường, được ra đời thay thế cho các thuốc BVTV thế hệ cũ như DDT, Lindan, Chlordan, Drin..
- Bảng 2: Các hoạt chất thuốc BVTV, độ độc và tỉ lệ hộ nông dân sử dụng ở địa bàn khảo sát.
- hộ nông dân sử dụng.
- SH: thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học HH: thuốc BVTV tổng hợp hóa học.
- Kỹ thuật sử dụng thuốc chủ yếu là theo khuyến cáo trên nhãn mác, bao bì (35,7.
- người được hỏi không nhớ tên của loại thuốc BVTV họ sử dụng gần đây nhất..
- Số lượng thuốc sử dụng trung bình cho mỗi vụ rau dao động từ ba đến năm loại thuốc khác nhau, tùy giai đoạn phát triển của cây và tình hình sâu bệnh.
- Người nông dân có xu hướng thay đổi thuốc mới (89% nông dân được hỏi) sau mỗi chu kỳ canh tác, mục đích là để tránh sự “lờn thuốc” của sâu bệnh.
- Thống kê ở bảng 3 cho thấy người nông dân ở Hương An trung bình sử dụng thuốc BVTV (1,495 kg hoạt chất/ha) cao hơn nhiều so với khu vực canh tác ở Quảng Thành (0,122 kg/ha).
- Phường Hương An là vùng canh tác chủ yếu hành lá, paro, có đến 5 loại hoạt chất bị sử dụng vượt quá liều lượng ghi trên nhãn thuốc, ví dụ: acetochlor là một thuốc diệt cỏ hóa học độ độc nhóm III thuộc nhóm chloroacetanilides được sử dụng gấp 3,5 đến 5 lần liều lượng khuyên dùng.
- emamectin là một loại thuốc trừ sâu sinh học có độ độc nhóm III thuộc nhóm avermectin được sử dụng gấp 2,9 lần so với liều lượng khuyên dùng, v.v.
- Đánh giá về ý thức của người nông dân trong việc tuân thủ liều lượng thuốc cho phép được sử dụng mỗi lần của một cán bộ khuyến nông cho biết: “Phần lớn nông dân muốn sử dụng thuốc BVTV với liều cao hơn khuyến cáo trên nhãn thuốc để thuốc tác dụng mau hơn và hiệu quả tức thì” (Trích phỏng vấn bán cấu trúc số 5, nam giới, 47 tuổi)..
- Địa điểm mua thuốc của người nông dân ở khu vực có khảo sát chủ yếu là ở chợ và các quầy/đại lý.
- bán thuốc BVTV trên địa bàn xã.
- Hầu như tất cả nông dân được hỏi đều không quan tâm đến các biểu tượng thông báo về độc tính có trên bao bì và tất nhiên là họ không hiểu biết về độc tính của các loại thuốc BVTV mà họ đang sử dụng.
- nông dân mua thuốc không nhãn mác.
- Có thể thấy tính “phát triển bền vững” không được người nông dân quan tâm.
- Những thiếu hụt trong kiến thức của người sử dụng thuốc có thể được giải thích bằng việc họ không được tập huấn hay thông tin đầy đủ và bản thân họ cũng không đủ trình độ để hiểu các thông tin.
- Có thể thấy việc đọc nhãn mác trên bao bì thuốc BVTV không phải là thói quen của người nông dân.
- Việc thiếu kiến thức về các loại hóa chất độc hại đang sử dụng cho cây trồng quyết định thái độ của người nông dân đối với những nguy cơ mà môi trường và chính bản thân họ với tư cách là người tiếp xúc trực tiếp hóa chất phải đối mặt (nếu không tính đến.
- Hình 3: Lý do nông dân lựa chọn sử dụng thuốc BVTV.
- nhân, sự dễ dãi về chất lượng và giá cả của thị trường thuốc BVTV là một trong những yếu tố (thuộc cấu trúc xã hội) có tác động đến việc mua bán và sử dụng thuốc BVTV của người nông dân.
- Ngoài ra, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật sử dụng thuốc (nhãn mác, các ký hiệu trên bao bì, kỹ thuật viên hướng dẫn, v.v.
- Chính vì vậy, mặc dù hằng năm mỗi xã đều có 2 đến 3 đợt tập huấn của cán bộ kỹ thuật, nhưng theo kết quả khảo sát, chỉ có 20% người được khảo sát có tham gia các khóa tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV do xã tổ chức.
- Lý do họ không tham gia các lớp tập huấn chủ yếu do sự chủ quan, là vì: “sau khi làm đồng về, người nông dân rất mệt và chỉ muốn nghỉ ngơi chứ không đủ sức theo các khóa học”, “kiến thức phức tạp, khó hiểu” và “không cần học cũng có thể mua và sử dụng dễ dàng” (Tổng hợp phỏng vấn sâu)..
- 3.3 Ý thức và thái độ của người người nông dân đối với những nguy cơ mà thuốc BVTV có thể gây ra cho môi trường và sức khỏe con người..
- Đánh giá về những nguy hiểm của thuốc BVTV hầu như tất cả nông dân được hỏi không quan tâm gì đến những biến đổi có hại của môi trường và chỉ nghĩ đến những tác hại của thuốc đối với sức khỏe con người.
- Tuy nhiên, nguy hiểm hơn, vẫn còn đến 23,3% nghĩ thuốc BVTV không gây ra bất kỳ vấn đề gì, 13,7%.
- người còn lại bối rối không biết thuốc BVTV có tác động đến sức khỏe và môi trường hay không.
- Một nghiên cứu của Hoi et al.
- (2009) ghi nhận rằng đa số người nông dân tin rằng thuốc BVTV thế hệ mới ngày nay an toàn cho sức khỏe con người và môi trường, và tất cả người nông dân được phỏng vấn đều hoàn toàn không nghĩ tới những nguy cơ tổn thương về sức khỏe do thuốc BVTV gây ra cho họ và người tiêu dùng.
- Nhận thức không đầy đủ về những nguy hại của các thuốc BVTV, người sử dụng thuốc không tự trang bị tốt để tự bảo vệ mình.
- Có 5,2% nông dân được phỏng vấn không sử dụng bất kỳ đồ bảo hộ nào khi phun thuốc.
- Trong số 147 người có sử dụng đồ bảo hộ, có 116 người sử dụng khẩu trang, 107 người sử dụng áo dài tay, chỉ có 44 người sử dụng găng tay và 3 người sử dụng kính bảo hộ.
- Người nông dân lý giải thái độ thờ ơ của họ đối với đồ bảo hộ lao động như sau: “Bơm thuốc mau thôi có gì đâu mà phải dùng găng tay cho vướng”.
- Bên cạnh đó, người nông dân không quan trọng trong lựa chọn nơi bảo quản thuốc thừa sau khi đã sử dụng.
- Có thể thấy cách xử lý bao bì thuốc đã dùng hết của người nông dân là không đúng quy cách và tạo ra những nguy cơ ô nhiễm môi trường rất lớn.
- Theo các nhà nông nghiệp, chúng đi vào các nguồn nước, ngấm vào đất rồi, đi vào khí quyển, tùy vào hướng gió và mức độ mạnh nhẹ mà thuốc BVTV bay phát tán đi xa hay gần.
- Tùy thuộc vào nồng độ của thuốc BVTV trong nước, đất, không khí cao hay thấp mà gây độc hại cho môi trường và sức khỏe của con người.
- Tác giả Ali (2001) đã cảnh báo việc phun thuốc BVTV cho cây trồng không những gây nguy hiểm cho sức khỏe của phụ nữ mà còn cho cả thế hệ tương lai.
- Và trên thực tế, người nông dân sử dụng thuốc đã phải đối mặt với những nguy hiểm về sức khỏe do thuốc BVTV gây ra: “Sau khi sử dụng thuốc BVTV, vì chủ quan không sử dụng bao tay do quên lúc ra ngoài đồng, cứ nghĩ bơm thuốc.
- Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là độ tuổi hay trình độ học vấn hoặc giới tính của người nông dân hầu như không phải là những yếu tố phản ánh kiến thức và thực hành sử dụng thuốc BVTV của họ, và cũng không tác động đến ý thức và thái độ của người nông dân đối với những nguy cơ rủi ro do thuốc BVTV gây ra.
- Điều này sẽ gây khó khăn cho các nhà quản lý cũng như các chuyên gia nông nghiệp trong việc khu trú đối tượng để nâng cao kiến thức và ý thức sử dụng thuốc BVTV của bà con nông dân trong khu vực..
- Ảnh hưởng của độ tuổi và trình độ học vấn đến kiến thức, thực hành sử dụng thuốc BVTV và ý thức, thái độ của nông dân về tác hại của thuốc BVTV đối với con người và môi trường.
- Sử dụng thuốc.
- Có tham gia tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc.
- Có khu vực riêng bảo quản thuốc BVTV.
- Thải loại vỏ thuốc BVTV đã sử.
- Biết đến ảnh hưởng của thuốc BVTV.
- Nghiên cứu này là một trong số ít những nghiên cứu thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế đưa ra được bức tranh hiện trạng sử dụng thuốc BVTV của nông dân trồng rau quy mô nhỏ trong khu vực.
- Ba đặc tính của nông dân trồng rau đã được xác định, đó là i) đa số là những người lớn tuổi, ii) có trình độ học vấn ở.
- mức dưới THCS, và iii) không tham gia thường xuyên các đợt tập huấn về hỗ trợ thông tin và kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV.
- Nghiên cứu cũng nêu rõ rằng giới tính, độ tuổi hay trình độ học vấn không phải là yếu tố quyết định đến việc sử dụng thuốc BVTV hay ý thức, thái độ của người dân đối với thuốc BVTV..
- Do rất khó xác định yếu tố chính tác động đến thực hành sử dụng thuốc BVTV, trong khi việc canh tác theo phương thức truyền thống đã ăn sâu vào nếp sản xuất của bà con nông dân trong khu vực, chính vì vậy, địa phương các cấp cần đẩy mạnh và mở rộng việc thực hành nông nghiệp tiên tiến đến nông dân với nhiều hình thức tuyên truyền, quảng bá và tập huấn đa dạng hơn, nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và ý thức của tất cả các nhóm người làm nông – không phân biệt nam nữ, độ tuổi hay trình độ học vấn..
- Một thành công nữa của nghiên cứu này là đã thống kê được các loại thuốc BVTV đang được sử dụng rộng rãi hiện nay trong khu vực, và các loại rau có nguy cơ tồn dư thuốc BVTV, làm cơ sở khoa học ban đầu để tiến hành các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm nhằm xác định dư lượng thuốc BVTV trong rau xanh, là một trong những thông tin quan trọng trong lĩnh vực an toàn thực phầm mà Việt Nam vẫn đang còn bỏ ngỏ..
- Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và một số giải pháp giảm thiểu việc sử dụng thuốc không hợp lý trong sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long