« Home « Kết quả tìm kiếm

MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN NỮ TRÍ THỨC


Tóm tắt Xem thử

- MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN NỮ TRÍ THỨC MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN NỮ TRÍ THỨC.
- TS.Nguyễn Thị Thu Hà Trường Cán bộ phụ nữ Ở mọi thời đại, đội ngũ trí thức luôn là “nền tảng tiến bộ xã hội”, là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự phát triển và phồn vinh của đất nước.
- Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện để đội ngũ trí thức phát triển ngày càng lớn mạnh, phát huy tốt vai trò phục vụ tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc v.v… Nhờ đó nước ta có được một đội ngũ trí thức khá mạnh, trung thành với đất nước và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua, trong đó có phần cống hiến không nhỏ của đội ngũ nữ trí thức.
- Phát triển lực lượng trí thức nói chung và đội ngũ nữ trí thức nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới.
- Trong thời đại cách mạng tri thức và cách mạng thông tin hiện nay nếu không có một đội ngũ trí thức đông và mạnh đủ khả năng nắm bắt, vận dụng tri thức mới của thời đại đang bùng nổ và sáng tạo tri thức mới thì không thể hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức được..
- LUẬT PHÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN TRÍ THỨC NÓI CHUNG VÀ NỮ TRÍ THỨC NÓI RIÊNG 1.1 Một số quy định trong luật pháp về chính sách liên quan đến nữ trí thức ở Việt nam 1.1.1 Hiến pháp Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất của nhà nước Việt Nam, Hiến pháp đã ghi nhận rất rõ việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ.
- 1.2 Chính sách và luật pháp của các tổ chức quốc tế và một số quốc gia trên thế giới liên quan đến phụ nữ, đến trí thức và nữ trí thức 1.2.1 Các công ước của Liên Hợp quốc và Tổ chức Lao động Quốc tế Để bảo vệ các quyền của phụ nữ - trẻ em nói chung và của nữ trí thức nói riêng, Liên hợp quốc đã thông qua rất nhiều công ước liên quan đến vấn đề này..
- 1.2.2 Luật pháp, chính sách của một số quốc gia trên thế giới Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ và các vấn đề liên quan đến nữ trí thức, nhiều quốc gia trên thế giới và các nước trong khu vực đã ban hành các quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng phù hợp với điều kiện mỗi nước.
- 1.2.2.1 Luật pháp của một số nước theo đạo Hồi Luật pháp của một số nước theo đạo Hồi cũng đã có những khuyến khích nhất định đến phát triển của nữ trí thức.
- MỘT SỐ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN NỮ TRÍ THỨC 2.1 Một số chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đề bạt cán bộ nữ Có thể nói, trong suốt những năm chiến tranh đến sau thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra rất nhiều chính sách đào tạo.
- phương hướng tăng cường công tác cán bộ nữ.
- đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong phụ nữ.
- tăng cường chỉ đạo công tác cán bộ nữ.
- Nghị quyết 04/BCT ngày12/7/1993 “Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, Đảng cũng xác định 3/6 công tác lớn mà Nhà nước, các cấp, các ngành phải quan tâm chỉ đạo liên quan đến việc phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong đó có nữ trí thức là: Giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của phụ nữ.
- Công tác cán bộ nữ.
- Có quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
- Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp, các ngành.
- Xây dựng chính sách tạo điều kiện cho cán bộ nữ làm việc và khuyến khích tài năng nữ phát triển.
- Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong phụ nữ.
- Nghị quyết TW VII khoá X của Đảng đã khẳng định, “đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới...”..
- 2.2 Một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đãi ngộ, tôn vinh trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng.
- Không chỉ quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ nữ trong đó có nữ trí thức, Đảng và nhà nước, một số ban/ngành còn có những chính sách cụ thể nhằm đãi ngộ, tôn vinh trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng.
- Năm 1971, Ban Bí thư Khoá III đã ra Chỉ thị về việc phân công trong công tác vận động, quản lý đội ngũ trí thức (số CT/TW ngày nhằm bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ sức cống hiến của anh chị em cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho đội ngũ trí thức mãi mãi là một lực lượng xã hội trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, với Đảng và Nhà nước ta”, đây cũng là chỉ thị nhằm góp phần bồi dưỡng đội ngũ nữ trí thức.
- Năm 2005, Đề án của Thủ tướng Chính Phủ “Tăng cường trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại các khu kinh tế quốc phòng” có nhiều chính sách ưu đãi đối với thanh niên trí thức tình nguyện nói chung và nữ thanh niên trí thức nói riêng: Trong thời gian công tác, thanh niên tình nguyện được hưởng trợ cấp hàng tháng theo hệ số lương khởi điểm như đối với sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học… Tùy theo từng địa bàn công tác, các đội viên còn được hưởng các khoản phụ cấp khác như phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp lưu động, phụ cấp thu hút, bảo hiểm xã hội, tư trang ban đầu, hỗ trợ kinh phí hoạt động văn hóa… Thanh niên trí thức tình nguyện được hưởng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước.
- Nghị quyết số 27-NQ/T.Ư về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” do Hội nghị BCH Trung ương Ðảng lần thứ 7 Khoá X thảo luận, thông qua và Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh ký ban hành ngày 6/8/2008 chỉ rõ: Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị.
- Nghị quyết xác định 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước: 1) Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức, từ đó, khuyến khích trí thức gia tăng sự cống hiến cho đất nước, 2) Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức.
- Xây dựng chính sách thu hút, tập hợp trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước tích cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới.
- 3) Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.
- Xây dựng một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, 4) Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức, 5) Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức.
- Liên quan đến chính sách đãi ngộ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng, trong thông báo về kết quả chuyến thăm và làm việc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại Bộ Khoa học và Công nghệ ngày của Văn phòng Trung ương Đảng nêu rõ 5 nhiệm vụ trọng tâm của ngành KH&CN Việt Nam là xây dựng chính sách trọng dụng cán bộ KH&CN.
- Ngoài chính sách tôn vinh trí thức của Đảng và nhà nước, Hội LHPN Việt nam đã thành lập Giải thưởng Kolevskaia dành riêng cho đội ngũ nữ trí thức nghiên cứu khoa học.
- Lễ trao giải thường Kolevskaia hàng năm và Hoạt động “Giao lưu nữ trí thức trẻ Việt Nam” của Hội là một chương trình rất có ý nghĩa đối với hoạt động của Hội LHPN Việt Nam và phong trào phụ nữ nhằm tôn vinh những tập thể và cá nhân các nhà khoa học nữ đã có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào thực tiễn cuộc sống, đem lại những lợi ích đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- khẳng định vai trò quan trọng của đội ngũ nữ trí thức trong sự nghiệp phát triển đi lên của đất nước, đồng thời là diễn đàn trao đổi về các cơ hội, thách thức đối với nữ trí thức trong quá trình phấn đấu đạt được những thành tựu khoa học, qua đó đề xuất với Đảng, Nhà nước những chính sách và cơ chế nhằm tạo điều kiện cho nữ trí thức phát huy tiềm năng, đóng góp nhiều hơn nữa trong công cuộc đổi mới đất nước.
- KẾT QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC, NỮ TRÍ THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ BẤT CẬP 3.1.
- Kết quả thực thi chính sách Trong thời gian qua, các chính sách đối với lao động nữ nói chung và với nữ trí thức nói riêng đã từng bước được thực thi và đạt được một số kết quả nhất định.
- chính sách về việc đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động.
- Ngoài các chính sách đối với người lao động mà cụ thể là các chính sách đối với lao động nữ, chúng ta còn xây dựng hệ thống chính sách đối với trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng.
- Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia BCH Trung ương Đảng khóa IX đạt 8,6%.
- Đội ngũ trí thức nữ đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng.
- Thành viên các hội đồng phong giáo sư, phó giáo sư phần lớn là nam giới và việc phong học hàm cho nữ trí thức còn mang nhiều định kiến giới.
- Rõ ràng, việc đánh giá năng lực nữ trí thức còn quá khắt khe và vẫn chưa thực sự bình đẳng với nam giới, điều này còn thể hiện ở việc tỷ lệ chị em phụ nữ tham gia công tác quản lý trong các cơ quan khoa học như các trường, các viện nghiên cứu còn thấp.
- Có rất nhiều ý kiến cho rằng, quy định tuổi về hưu của phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng còn nhiều bất cập, gây hạn chế khả năng cống hiến của các họ.
- Nếu trung bình mỗi người phụ nữ sinh hai con thì việc sinh nở và chăm sóc con cái đã chiếm mất 5 năm, chưa kể vì bận rộn với gia đình nên thời gian dành cho học tập của chị em cũng hạn chế hơn nam giới và nữ trí thức chỉ thực sự đóng gớp được từ tuổi 40 trở đi, tức là khi con cái đã cứng cáp và có nhiều thời gian hơn.
- Thế nhưng, tuổi về hưu của nữ trí thức lại ít hơn nam giới 5 năm và thực tế là cho đến độ tuổi này, chị em đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong công tác và đang còn khả năng làm việc.
- Vậy, việc về hưu vào độ tuổi 55 có phải là một thiệt thòi cho các nữ trí thức và cho chính Nhà nước không? Vấn đề đãi ngộ đối với trí thức cũng đã được bàn bạc và thảo luận nhiều, TP.
- HCM đã kiến nghị áp dụng mức lương vượt khung rất cao cho các trí thức Việt kiều.
- Nhưng, vấn đề chảy máu chất xám vẫn xảy ra, hàng năm vẫn có một lượng lớn trí thức bỏ Nhà nước ra làm cho các công ty tư nhân hoặc công ty có vốn đầu tư nước ngoài hay các tố chức phi chính phủ.
- Điều này thể hiện chính sách đãi ngộ và cơ chế vận hành bộ máy của chúng ta chưa đủ mạnh để giữ chân trí thức.
- “Nói tới trí thức là nói tới một lớp người có trình độ tri thức cao, có chuyên môn sâu, có khả năng tư duy sáng tạo, khả năng nghiên cứu và bắt nhịp được với những tiến bộ ít nhất là ngành chuyên môn của mình.
- Đàng này, rất hiếm các trí thức xuất thân từ nguồn đào tạo trong nước, có thể tự mình nghiên cứu các tài liệu ngoại ngữ, giao lưu với các đồng nghiệp ngoại quốc, tham dự một hội nghị quốc tế… Làm sao gọi là “ngang tầm” được? Nhãn hiệu trí thức gán cho không ít những người trong giới này, thật ra chỉ dựa trên tiêu chuẩn hoàn toàn hình thức là đã được đào tạo và có bằng cấp bậc cao, tức đại học-cao đẳng hoặc trên.
- Nghị quyết Trung ương 7 khóa X của Đảng là cương lĩnh xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020, nhưng việc thực hiện nghị quyết vẫn còn nhiều điều bất cập, ví dụ như việc trí thức tham gia hoạch định chính sách, tư vấn, phản biện xã hội chưa được chính quyền các cấp quan tâm một cách xác đáng.“Hiện nay, rất ít dự án của nhà nước có sự tham gia của các nhà khoa học.
- Nên chăng, Chính phủ cần phải cụ thể hóa một số điều trong Nghị quyết để triển khai thực hiện mới mong huy động được sự đóng góp toàn diện của đội ngũ trí thức” (Hồ Đăng).
- Tóm lại, trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chính sách đối với người lao động nói chung và với trí thức nói riêng, trong đó có nữ trí thức.
- Những chính sách này đã phần nào tạo điều kiện cho trí thức có cơ hội phát huy khả năng của mình trong hoạt động lao động, khoa học, quản lý, đóng góp cho xã hội.
- Một số vấn đề bất cập trong việc thực thi chính sách 4.
- TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CẤP UỶ ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN TRONG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ NỮ TRÍ THỨC 4.1.
- Trách nhiệm trong việc bồi dưỡng và phát triển đội ngũ nữ trí thức trong thời kỳ đổi mới Trong hơn 20 năm Đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách phù hợp, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng.
- Vì vậy, đội ngũ trí thức đã hình thành và phát triển thành một lực lượng lao động hùng hậu.
- Nữ trí thức Việt Nam có những đặc thù riêng là xuất thân chủ yếu từ công nhân, nông dân và trí thức.
- Theo những số liệu mới nhất, tỷ lệ nữ trí thức xuất thân từ tầng lớp trí thức cao hơn so với các tầng lớp khác, chủ yếu do quan niệm tiến bộ về nữ giới ở tầng lớp này.
- Đội ngũ nữ trí thức Việt Nam chủ yếu được đào tạo trong nước.
- Theo số liệu cung cấp trong Hội thảo Ngày về “Vai trò của nữ trí thức Liên hiệp hội Việt Nam với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức thì tính đến năm 2009, trong lĩnh vực KH&CN, lượng nữ chiếm một tỷ lệ đáng kể (42,2.
- Nhiều nữ trí thức đã được Đảng và Nhà nước trao tặng những giải thưởng cao quý, nhiều nhà khoa học nữ được nhà nước tôn vinh là anh hùng lao động, cấp bằng lao động sáng tạo, các giải thưởng trong và ngoài nước.
- Trí thức Việt kiều có khoảng 400.000 người, chiếm hơn 10% người Việt ở nước ngoài.
- Những con số nêu trên đã thể hiện được vai trò và trách nhiệm của các cấp trong việc xây dựng, phát triển đội ngũ nữ trí thức.
- Tuy nhiên, số liệu thống kê cũng chỉ ra rằng, mặc dù trong hơn 50 năm qua, đội ngũ nữ trí thức trong các ngành khoa học của Việt Nam nhìn chung là tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng nhưng nếu so với tỷ lệ nữ trong dân số (trên 51.
- trong lực lượng lao động (trên 49%) và năng lực thực sự của họ thì con số nữ trí thức còn rất khiêm tốn.
- Hiện nay, số lượng nữ trí thức có tăng lên nhưng chỉ mới tăng ở bậc cử nhân, còn các bậc sau đại học thì không cao.
- Đây cũng là một trong những chỉ báo và là thách thức đối với các cấp trong việc bồi dưỡng, sử dụng và phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức đối với đất nước trong thời kỳ mới.
- Bởi vì sẽ là rất lãng phí nhân lực trí tuệ cho xã hội nếu nữ trí thức không được đào tạo, đầu tư một cách thích đáng.
- Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng, nhưng thực tế cho thấy nhiều cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo, văn hoá, văn nghệ và của đội ngũ trí thức.
- Định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ, thậm chí xem thường trí thức.
- Thực tế cho thấy, một số chính sách còn chưa phù hợp và không khuyến khích được đội ngũ nữ trí thức phát triển.
- Ví dụ, quy định ở Bộ luật Lao động: phụ nữ nghỉ hưu ở tuổi 55, nam giới ở tuổi 60, quy định việc nghỉ chế độ trước nam giới 5 tuổi có thể làm hạn chế sức cống hiến của nữ trí thức.
- Song Nhà nước chưa có chính sách riêng cho đội ngũ cán bộ nữ, chỉ có chính sách chung trong đó có phụ nữ (tuổi bổ nhiệm: QĐ 51 ngày 3/5/1999, tuổi tham gia cấp ủy: Chỉ thị 54 ngày 22/5/2000).
- Đối với những nữ trí thức tiềm năng (nữ sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học), trong những trường hợp có giới hạn về tỷ lệ, ví dụ tỷ lệ số người được học bổng, tỷ lệ sinh viên cao học được chuyển tiếp học nghiên cứu sinh nên tính tỷ lệ riêng cho nam và nữ.
- Bởi những bất hợp lý đó, đội ngũ nữ trí thức khó có cơ hội/môi trường để phát triển và cống hiến nhiều hơn cho đất nước.
- Chính vì lẽ đó, tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá X (tháng 7/2008), BCH Trung ương nhấn mạnh trách nhiệm của các cấp trong việc xây dựng đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có nữ trí thức “Cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể về vị trí, vai trò của trí thức.
- hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
- Đồng thời đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng các hội của trí thức”.
- Kết luận Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quan điểm nhất quán phát huy vai trò của trí thức, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của đội ngũ trí thức thông qua một số chính sách cụ thể đã được ban hành và thực hiện, như: chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức, chính sách sử dụng và tạomôi trường phát huy vai trò của trí thức.
- chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
- Những chủ trương, chính sách này đã tạo môi trường thuận lợi để trí thức phát triển về số lượng, từng bước nâng cao trình độ và năng lực sáng tạo, góp phần trực tiếp cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin và động lực cho trí thức cống hiến.
- Tuy nhiên, rất ít chính sách dành riêng cho nữ trí thức.
- Một số giải pháp · Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và môi trường thuận lợi cho hoạt động của nữ trí thức.
- Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật dành cho nữ trí thức còn thiếu và chưa đồng bộ, môi trường làm việc của nữ trí thức còn quá nhiều khó khăn.
- Có chế độ đãi ngộ và tôn vinh nữ trí thức hơn nữa, nữ trí thức cần được bố trí việc làm phù hợp với chuyên môn và năng lực của họ.
- đồng thời phải có chế độ lương hợp lý cho nữ trí thức.
- Nhà nước nên có cơ chế đào tạo các bậc đại học, trên đại học tại các tỉnh miền núi hoặc ít nhất có cơ sở đào tạo bậc thạc sỹ, tiến sỹ để giúp cho nữ trí thức giảm bớt khó khăn về chi phí tiền, thời gian.
- nâng mức hỗ trợ cán bộ nữ trí thức dân tộc thiểu số, cán bộ nữ làm việc ở vùng cao tham gia đào tạo ở bậc cao.
- Bài nói chuyện “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của đồng chí Phùng Hữu Phú, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương tại Hội nghị Báo cáo viên trực tuyến ngày 22/7/2008-http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30463&cn_id=243880.
- Bài tham luận tại Hội thảo về trí thức Việt nam ở nước ngoài “Khơi nguồn trí thức người Việt Nam ở nước ngoài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước”, TS Phạm Kiến Thiết - Phó Vụ trưởngVụ Quan hệ Kinh tế, KH & CN, Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao.
- Bài báo “Trao bài toán của đất nước cho đội ngũ trí thức”, website: http://www.tinmoi.vn/Trao-bai-toan-cua-dat-nuoc-cho-doi-ngu-tri-thuc-1293249.html.
- Bài báo “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước”, website:http://trithuc.thanhnienkhcn.org.vn/home/detail.php?module=news&iCha=55&iCat=132&iNew=2161.
- Bài báo “Đội ngũ trí thức trong thời kỳ CNH – HĐH, phát triển kinh tế trí thức”, GS.VS Đặng Hữu, website: http://www.vids.org.vn/vn/asp/News_Detail.asp?mid=821&ID=347.
- Bài báo “Phát huy vai trò của nữ trí thức trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước”, website: http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30179&cn_id=378483.
- Bài báo “Nâng cao trí tuệ cho phụ nữ - vấn đề cấp thiết để đào tạo nguồn nhân lực trí thức”, website:http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=1474.
- Bài báo “Nữ trí thức chưa được đãi ngộ xứng đáng”, website:http://www.baodatviet.vn/Home/KHCN/Nu-tri-thuc-chua-duoc-dai-ngo-xung-dang datviet.
- Chỉ thị số 190 – CT/TW ngày 7/7/1971 của ban Bí thư Khoá III về việc phân công trong công tác vận động, quản lý đội ngũ trí thức.
- HYPERLINK "http://www.cpv.org.vn/cpv/modules/news/newsdetail.aspx?cn_id=378483&co_id=30179" �Phát huy vai trò của nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước