« Home « Kết quả tìm kiếm

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁCH PHIÊN ÂM TỪ VIỆT BẰNG CHỮ HÁN TRONG AN NAM QUỐC DỊCH NGỮ VÀ TRONG TỨ DI QUẢNG KÝ - QUA VIỆC SO SÁNH VỚI AN NAM DỊCH NGỮ


Tóm tắt Xem thử

- Davidson (1975), và Vương Lộc (1997) đã giới thiệu các loại văn bản và cách phiên âm từ Việt bằng chữ Hán trong tài liệu này.
- Trong đó, tác giả đã căn cứ vào luận điểm của Davidson (1975) để quy ra hệ thống ngữ âm thế kỷ XV - XVI, nên đó là một tình hình ngữ âm phản ánh trong ANQDN..
- Trong nhiều trường hợp ANDN tạo ra nhiều đơn vị không có trong tiếng Việt hoặc không đúng với trật tự cú pháp tiếng Việt, còn ANQDN lại sửa được nhiều trường hợp đó, mặc dù chưa sửa được hết hoàn toàn..
- So với ANDN, việc dùng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt ở trong ANQDN thường không được nhất quán lắm..
- Trong ANQDN có một số trường hợp dịch một từ Hán bằng cả từ Hán Việt lẫn từ thuần Việt ghi song song với nhau..
- Theo Trần Kinh Hoà, Davidson và Vương Lộc, cách phiên âm trong ANQDN chính xác và xác đáng hơn trong ANDN, thậm chí có trường hợp tác giả của ANQDN sửa lại phần sai sót trong ANDN 2.
- Trong bài này, chúng tôi phân tích những điểm khác nhau về cách phiên âm giữa hai văn bản từ góc độ ngữ âm học lịch sử rồi nêu lên một số đặc điểm riêng của ANQDN để xem xét lại vị trí của nó trong quá trình biến đổi phụ âm đầu trong tiếng Việt 3.
- Trong khi phân tích cách phiên âm từ Việt bằng chữ Hán trong ANDN hoặc ANQDN, hầu như tất cả các tác giả lấy hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Minh, tức hệ thống ngữ âm phản ánh trong cuốn Trung Nguyên âm vận 中原音韵 , làm đối tượng so sánh với âm tiếng Việt được ghi bằng chữ Hán.
- Mặt khác, những người tham gia vào việc biên soạn Hoa Di dịch ngữ không hẳn tất cả đều là người xuất xứ ở thủ đô, thậm chí có trường hợp người bản xứ của ngôn ngữ đó cũng tham gia 4 .
- Kết quả phân tích theo phương pháp này cũng sẽ giúp chúng tôi khảo sát về tính phương ngữ của tiếng Hán làm cơ sở phiên âm từ Việt..
- Trước tiên, chúng tôi so sánh cách phiên âm các âm vị phụ âm cuối tắc trong hai bản.
- Nôm cho đến thế kỷ XVII, những âm vị này tiếp tục giữ lại vị trí riêng trong hệ thống và rất ít trường hợp đổi sang âm vị khác (Nguyễn Tài Cẩn, 1985.
- Mineya, 1972), nên việc xem xét cách phiên âm chúng sẽ giúp cho chúng tôi nắm được những điểm khác nhau về phương pháp phiên âm từ tiếng Việt.
- Chúng tôi cũng phân tích những trường hợp phiên âm tổ hợp phụ âm đầu và song âm tiết trong hai bản, vì thực trạng của hai đặc điểm ngữ âm này trong thời kỳ thành lập hai bản đó có thể biết được thông qua những tài liệu nội địa Việt Nam được ghi bằng chữ Nôm 5.
- Đối ứng Nhập Thanh và phụ âm cuối tắc tiếng Việt trong ANDN Thanh điệu.
- ch ữ Hán dùng phiên âm.
- Phụ âm cuối từ Việt được phiên âm.
- Phụ âm cuối khác (kể cả âm tiết mở).
- tổng số?: số trường hợp tái lập từ vựng chưa chắc chắ n.
- Đối ứng Nhập Thanh và phụ âm cuối tắc tiếng Việt trong ANQDN Thanh điệu chữ.
- Hán dùng phiên âm.
- Sau khi nắm được một số đặc trưng ngữ âm phản ánh trong ANQDN, chúng tôi dựa vào kết quả nghiên cứu của Ferlus (1982 và 1992) về quá trình biến đổi phụ âm đầu mà khảo sát thêm về vị trí của nó trong quá trình biến đổi phụ âm đầu từ giai đoạn proto Việt đến giai đoạn hiện đại..
- Về phương pháp phiên âm từ Việt bằng chữ Hán trong ANDN và ANQDN 3.1.
- Cách phiên âm phụ âm cuối tắc.
- Trong bảng 2 và 3, chúng tôi nêu lên tần số xuất hiện những trường hợp ghi từ Việt có phụ âm cuối tắc và ghi từ Việt bằng chữ Hán nhập thanh 入聲 , tức có phụ âm cuối tắc trong hai bản.
- Trước hết, chúng tôi thấy rất rõ rằng tác giả của hai bản đều có xu hướng sử dụng chữ Hán nhập thanh khi phiên âm những từ Việt có phụ âm cuối tắc, có nghĩa là phương ngữ tiếng Hán mà tác giả dựa vào để phiên âm từ Việt có thể vẫn giữ lại phụ âm cuối tắc, hoặc tác giả dựa vào tri thức về âm vận học truyền thống tiếng Hán mà tiến hành việc phiên âm..
- Nếu so sánh tần số trường hợp dùng chữ Hán không nhập thanh để phiên âm từ Việt có phụ âm cuối tắc hoặc ngược lại dùng chữ Hán nhập thanh để phiên âm từ Việt không có phụ âm cuối tắc, thì ANQDN có tần số cao hơn ANDN, một số ví dụ về trường hợp sau ở Bảng 4..
- Một số trường hợp phiên âm từ Việt không có phụ âm cuối tắc.
- phi nh ập thanh) Phiên âm ANQDN (dùng ch ữ.
- Hán nh ập thanh) Phiên âm 七.
- Tuy nhiên, ngay cả trong ANQDN, trường hợp dùng chữ Hán nhập thanh mà ghi phụ âm cuối tắc tiếng Việt vẫn có tần số đáng kể, nên chúng tôi tạm kết luận rằng ý thức của tác giả về âm vận học tiếng Hán truyền thống trong ANQDN tương đối thấp hơn ANDN..
- Cách dùng chữ Hán phiên âm số từ từ 1 đến 10 trong hai bản.
- Nói về ý thức đối với truyền thống thì tác giả của ANDN có phần dựa vào cách dùng chữ Hán trong chữ Nôm Việt Nam mà phiên âm từ Việt như thấy trong trường hợp số từ từ một đến mười trong Bảng 5..
- Tác giả ANQDN biểu hiện thái độ cải cách và tự do so với tác giả ANDN, tức ít bị ảnh hưởng bởi hệ thống âm vị học tiếng Hán truyền thống, đồng thời hầu như không bị ảnh hưởng bởi cách dùng chữ Hán để phiên âm tiếng Việt ở Việt Nam, tức là chữ Nôm giả tá..
- Cách phiên âm tổ hợp phụ âm và song âm tiết.
- Chúng tôi xem tiếp cách phiên âm từ Việt có tổ hợp phụ âm đầu hoặc song âm tiết.
- Thông qua việc khảo sát vấn đề này, chúng tôi thấy một phương châm biên soạn khác của tác giả ANQDN.
- Bảng 6 và 7 gồm có các trường hợp dùng một chữ Hán để ghi tổ hợp phụ âm đầu trong ANDN và ANQDN..
- Cách phiên âm tổ hợp phụ âm trong ANDN T ổ hợp phụ âm.
- Ch ữ Hán dùng để phiên âm / Tên thanh mẫu tiếng Hán Trung đại (Âm hi ện đại [Chữ Hán dịch nghĩa] <.
- *k ʰ r- 亢溪母 (sáng [暁] <.
- 空溪母 (sông [河] <.
- *pr- 牌並母 (say [酔] <.
- *Cr- 蔞來母 (sâu [深] <.
- 欄来母 ( trăm [ 百] <.
- 連来母 (trên [上] <.
- 鸞来母 (tròn [円] <.
- 竜来母 (trong [清] <.
- 勒来母 ( trước [ 前] <.
- 来来母 (trai [奴婢] (tôi - tôi gái) <.
- 勒来母 (trai [姪児] (cháu.
- 蔞来母 (tr ầu [ 蔞] <.
- 雷来母 (tr ời [ 天] <.
- *kl- 共群母 (tr ống [ 皷] <.
- Cách phiên âm tổ hợp phụ âm trong An Nam quốc dịch ngữ T ổ hợp phụ âm.
- Ch ữ Hán dùng để phiên âm / Tên thanh mẫu tiếng Hán Trung đại (Âm hiện đại [Ch ữ Hán dịch nghĩa] <.
- 客溪母 (s ắt [ 鉄]7 <.
- 考溪母 (sau [後] <.
- 空溪母 (s ống [ 生] <.
- *pr- 包幫母 (sáu [六] <.
- 牌並母 (say [酔] <.
- *Cr- 蔞来母 (sâu [深] <.
- 竜来母 (sông [江] <.
- 登端母 (trên [上] <.
- 朗来母 (tròn [円] <.
- 吝来母 (tròn [円] <.
- 雷来母 (tr ời [ 天, 日] <.
- Tất cả những trường hợp trong hai bảng trên đều chỉ ghi một trong hai yếu tố trong tổ hợp phụ âm đầu tiếng Việt..
- Có một số trường hợp như sông, trên và tròn, thì trong ANDN chỉ dùng một loại chữ để phiên âm một hình vị, còn trong ANQDN tác giả dùng nhiều loại chữ để ghi cùng một hình vị.
- Ở đây, quan trọng hơn là những trường hợp tác giả dùng hai mã chữ để ghi tổ hợp phụ âm hoặc song âm tiết.
- Bảng 8 gồm 3 trường hợp như vậy:.
- Tổ hợp phụ âm và song âm tiếng ghi bằng hai mã chữ Ch ữ Hán.
- An Nam.
- Trong trường hợp này có hai cách phiên âm từ Việt hoàn toàn khác nhau giữa hai bản.
- Một hình vị có tổ hợp phụ âm đầu được ghi bằng hai mã+ chữ thì trong ANDN có hai trường hợp: 革蔞 trâu và 托爛 trán.
- Đối với hai trường hợp này, tác giả..
- Còn trường hợp ghi từ song âm tiết trong ANDN là 喇大 .
- Đối với trường hợp này, trong ANQDN cũng có 3 lần ghi bằng hai mã chữ 刺大 và 喇大 , nhưng có một lần ghi bằng một mã chữ 刺 vốn biểu thị yếu tố thứ nhất trong song âm tiết.
- Điều này có thể chứng tỏ rằng tác giả ANQDN đã tham khảo cách phiên âm trong ANDN, rồi cố tìm cách nào đó để dịch một hình vị từ Hán bằng một mã chữ theo một phương pháp phổ biến trong ANQDN..
- Tóm lại, tác giả của ANDN nếu có trường hợp có yếu tố nhận thức được như một âm tiết thì dùng một mã chữ ghi âm tiết đó, có khi đó là yếu tố thứ nhất trong tổ hợp phụ âm đầu hoặc song âm tiết.
- Ngược lại, tác giả ANQDN thì có một phương châm hoàn toàn khác là phiên âm một hình vị bằng một mã chữ như cấu trúc âm tiết tiếng Hán thời ấy, và nếu khó áp dụng phương châm này thì dùng từ khác hoặc chỉ ghi cách đọc Hán Việt của chữ Hán dịch nghĩa 11.
- Vị trí của ANQDN trong quá trình biến đổi phụ âm đầu.
- Trên cơ sở tìm hiểu hai văn bản một cách sơ lược như trên, chúng tôi tiếp tục phân tích đặc trưng ngữ âm cách phiên âm trong ANQDN.
- Trong đó, tác giả đặt tình hình ngữ âm phản ánh trong ANQDN vào quá trình biến đổi ngữ âm phụ âm đầu tiếng Việt.
- Dựa vào hai công trình này, quá trình xát hoá phụ âm tắc có thể minh hoạ như Hình 1..
- Chúng tôi cũng đối chiếu lại hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt trong ANQDN với hệ thống ngữ âm tiếng Hán Trung đại, thì kết quả như Phụ lục 2..
- Quá trình bi ến đổi phụ âm đầu (Ferlus .
- Trong bài viết này, chúng tôi phân tích hai loại văn bản phiên âm từ Việt bằng chữ Hán được biên soạn vào đời Minh ở Trung Quốc, tức An Nam dịch ngữ và An Nam quốc dịch ngữ.
- Thông qua việc so sánh tình hình ngữ âm được phản ánh trong hai bản, chúng tôi tạm kết luận như sau:.
- 1) Tác giả của ANDN có xu hướng bị ảnh hưởng bởi cách dùng chữ Hán phiên âm từ Việt ở nội địa Việt Nam, tức là chữ Nôm giả tá, đồng thời cũng bị ảnh hưởng bởi hệ thống âm vận tiếng Hán Trung đại, tức hệ thống ngữ âm phản ánh trong Thiết vận, khi tiến hành việc phiên âm từ Việt bằng chữ Hán..
- 2) Tác giả của ANQDN có tư tưởng tiến bộ và tự do hơn, ít chịu ảnh hưởng của truyền thống trong khi phiên âm từ Việt..
- Vì lý do trên, chúng tôi dựa vào tình hình ngữ âm phản ánh trong ANQDN mà xem xét lại vị trí của nó trong quá trình biến đổi phụ âm đầu từ Proto Việt đến hiện đại trên cơ sở hai công trình của Ferlus (1982 và 1997).
- Đồng thời, chúng tôi cũng đề cập đến hệ thống ngữ âm được phản ánh trong cấu tạo chữ Nôm vào thế kỷ XV để xem xét từng giai đoạn: Proto Việt → thế kỷ XV (Phật thuyết.
- 5 Xem: Shimizu Masaaki, Sự ảnh hưởng của cấu trúc âm tiết từ Hán Việt đến sự biến đổi các tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt, bài đã đọc ở Khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ngày 22/3/2006..
- 7 Trong Phật thuyết cũng thấy một trường hợp dịch từ thiết 鐵 bằng 可列 (Shimizu, 1996)..
- 11 Trường hợp dùng hai mã chữ 麻兀 để dịch chữ 馬 (mã) trong ANQDN có vẻ là ngoại lệ duy nhất.
- những mục khác dịch chữ 馬 trong ANQDN, thì chữ 麻 khi nào cũng được dùng để phiên âm cách đọc Hán Việt của chữ 馬 , còn chữ 兀 được dùng để ghi từ ngựa, nên đây là một trong những trường hợp tác giả ANQDN ghi âm từ Hán Việt và từ thuần Việt tương đương với nhau, như Trần Kinh Hoà phân tích (tr.54)..
- [15] Shimizu Masaaki, Sự ảnh hưởng của cấu trúc âm tiết từ Hán Việt đến sự biến đổi các tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt, bài đã đọc ở Khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ngày 22/3/2006..
- Hệ thống âm vị phụ âm đầu tiếng Hán Trung đại (Mori ,1991).
- Đối chiếu phụ âm đầu An Nam quốc dịch ngữ với thanh mẫu tiếng Hán Trung đại