« Home « Kết quả tìm kiếm

Ngành thông tin - thư viện với sự nghiệp nghiên cứu & đào tạo các ngành khoa học xã hội & nhân văn ở Việt Nam hiện nay


Tóm tắt Xem thử

- NGÀNH THÔNG TIN - THƯ VIỆN NGÀNH THÔNG TIN - THƯ VIỆN VỚI SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU & ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PGS.TS.
- Chủ nhiệm Khoa Thông tin & Thư viện Trường Đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa học Thông tin - Thư viện là một ngành khoa học xã hội độc lập.
- Song tri thức nhân loại là một hệ thống thống nhất, khoa học Thông tin - Thư viện (TT – TV) không tồn tại một cách đơn lẻ, hơn nữa nó còn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các ngành khoa học Xã hội & Nhân văn (KHXH & NV).
- Bản chất của các cơ quan thông tin, thư viện và sự nghiệp thông tin - thư viện là một hiện tượng xã hội, được hình thành do nhu cầu trao đổi thông tin từ thực tiễn đời sống của con người.
- Chính vì thế, khoa học TT - TV luôn không ngừng “hoàn thiện”và phát triển để thực hiện tốt các chức năng của mình về văn hoá, giáo dục, thông tin và giải trí nhằm hoàn thành nhiệm vụ quan trọng phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển sự nghiệp văn hoá.
- giáo dục & đào tạo.
- Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành Thông tin - Thư viện đã và đang không ngừng nỗ lực vượt qua mọi thách thức, nhanh chóng nắm bắt thời cơ để phát triển nhằm đảm bảo thông tin đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời và chính xác cho mọi đối tượng người dùng tin phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và sự nghiệp đào tạo & nghiên cứu các ngành KHXH & NV nói riêng.
- Góp phần tích cực đảm bảo cung cấp thông tin/tài liệu có chất lượng, đầy đủ, kịp thời để các ngành KH XH & NV thực hiện trọng trách hết sức quan trọng là nghiên cứu “Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi mới đất nước.
- Thách thức từ bên ngoài đối với ngành TT – TV trước hết là sự tác động mạnh mẽ của cuộc các mạng công nghệ thông tin và viễn thông hiện đại đã làm hoạt động nghiệp vụ của ngành biến đổi về chất.
- Sự xuất hiện hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ thông tin mới đã tác động trực tiếp và làm thay đổi tâm lý, thói quan, nhu cầu sử dụng tài liệu, khai thác thông tin phục vụ nghiên cứu, học tập và đào tạo của người dùng tin nói chung và những người dùng tin trong lĩnh vực KHXH & NV nói riêng.
- Sư xuất hiện sản phẩm giấy điện tử, sách điện tử ra đời và công nghệ thông tin hiện đại đường truyền kỹ thuật số với phương thức in ấn, xuất bản mới, dịch vụ nhà sách trực tuyến đã làm biến đổi kỹ thuật xuất bản, lưu giữ, truyền tải phục vụ tài liệu cho người dùng tin theo nhu cầu từ File dữ liệu trên máy in, máy phôtô copy, máy Fax thông.
- Dịch vụ này cho phép xuất bản thuận lợi, nhân bản nhanh chóng, truyền tải phục vụ thông tin cập nhật, thuận lợi, giá thành giảm.
- Dịch vụ cung cấp thông tin/tài liệu với hình thức nhà sách tự chọn trực tuyến tới kho sách ảo và đưa sách tài liệu đến tận nhà tạo điều kiện thuận lợi cho người dùng tin.
- Họ không cần đến các trung tâm thông tin, thư viện hay hiệu sách ở xa.
- Dịch vụ này đã làm giảm lượng người dùng tin đến các trung tâm thông tin, thư viện đáng kể, đặc biệt là hệ thống các thư viện công cộng.
- Dịch vụ này dẫn tới việc đảm bảo phổ biến thông tin/tài liệu (đặc biệt là tài liệu về các lĩnh vực KHXH & NV) có chủ đích của các cơ quan thông tin gặp khó khăn hơn.
- Vì vậy, các cơ quan thông tin, thư viện chuyên ngành (cơ quan TT, TV của các trường đại học/học viện/viện nghiên cứu) cần phải có nguồn tin trực tuyến, đa phương tiện đầy đủ, với hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại.
- Đồng thời đòi hỏi các chuyên gia thông tin - thư viện trong môi trường mới cần phải có trình độ cao về nghiệp vụ kỹ thuật mới và cần có trình độ/kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực khoa học khác nhau để tạo dựng các sản phẩm và dịch vụ thông tin tinh sảo có chất lượng cao tương thích với sự phát triển của các dịch vụ trực tuyến, truyền thông di động hiện đại là những thách thức không nhỏ với ngành TT – TV trong việc lựa chọn, thu thập tài liệu để phát triển nguồn tin.
- trong việc nắm bắt các chuẩn kỹ thuật/công nghệ mới, trong việc xử lý, lưu giữ, bảo quản thông tin và trong việc tạo dựng các sản phẩm, dịch vụ thông tin hiện đại để phổ biến, phục vụ người dùng tin trong học tập và nghiên cứu.
- Đặc biệt là trong việc đánh giá vai trò quan trọng của thông tin KHXH & NV trong xã hội thông tin với nền kinh tế tri thức hiện nay.
- Chính vì vậy, việc đầu tư ngân sách còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tin học hóa, tự động hoá các cơ quan TT, TV chuyên ngành phục vụ đào tạo, nghiên cứu các ngành KHXH & NV trong việc xây dựng và phát triển nguồn tin điện tử.
- đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại và phần mềm tích hợp.
- Vì vậy, nghiệp vụ của ngành còn chưa được chuẩn hoá, chưa theo kịp với tốc độ phát triển, biến đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin hiện đại, ảnh hưởng đến hiệu quả hội nhập chia sẻ thông tin trong và ngoài nước phục vụ cho nghiên cứu và đào tạo.
- Nguồn nhân lực trong các cơ sở đào tạo và các cơ quan TT, TV còn rất thiếu về số lượng và chưa đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận và kỹ năng tác nghiệp trong môi trường thư viện hiện đại.
- Sự phối hợp chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các cơ quan TT, TV phục vụ nghiên cứu và đào tạo các lĩnh vực KH XH & NV nói riêng chưa được triển khai.
- Bên cạnh việc tích cực khắc phục những thách thức như đã phân tích ở trên ngành TT – TV đã và đang nhanh chóng chớp lấy cơ hội, vận hội mới để phát triển theo hướng hiện đại nhằm tổ chức phục vụ đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin/tài liệu phục vụ nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV trong giai đoạn đổi mới của đất nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.
- Trong nền kinh tế này, tri thức/thông tin đã và đang trở hành các nguồn tài nguyên trực tiếp, nguồn lực quan trọng hàng đầu mang tính chiến lược.
- Vì vậy, các vấn đề như phát triển, lựa chọn thu thập thông tin, xử lý, lưu trữ, phổ biến, khai thác và quản trị thông tin/tri thức khoa học dưới mọi hình thức dựa trên hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại là nội dung trọng tâm của nền kinh tế thế giới nói chng và Việt Nam nói riêng.
- Cơ hội thứ hai là sự phát triển nhảy vọt, đạt trình độ cao chưa từng có của công nghệ thông tin và viễn thông đã phá tan bức tường rào về không gian và thời gian, khiến biên giới trên phương diện địa chính trị giữa các quốc gia trên toàn cầu không còn ý nghĩa.
- Nhu cầu đề các quốc gia, cơ quan nghiên cứu và đơn vị đào tạo các lĩnh vực KHXH & NV.
- có cơ hội trao đổi, chia sẻ thông tin/tri thức, tìm kiếm đối tác một cách nhanh chóng thông qua xu hướng phát triển liên kết mạng Internet hiện đại/mạng thông tin điện tử đã và đang tác động mạnh đến hình thức tổ chức, quản lý hoạt động và nghiệp vụ của ngành TT – TV truyền thống.
- Đặc biệt Chỉ thị số 58 – CT/TW ngày của Bộ Chính trị đã nêu: “Tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực....và các dịch vụ công cộng (giáo dục, đào tạo từ xa, chữa bệnh từ xa, thư viện điện tử.
- chú trọng phát triển và đào tạo cán bộ cho các ngành công nghệ cao, mũi nhọn, các lĩnh vực điện tử viễn thông, công nghệ thông tin, quản trị thông tin.
- Trong kết luận HN BCH TƯ lần thứ 6 khoá IX đã nêu rõ một trong những phương hướng, nhiệm vụ phát triển KH & CN đến năm 2010 là: tổ chức hệ thống thông tin KH&CN quốc gia, các thư viện điện tử theo hướng hiện đại hoá và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
- Tháng 6/2000, Luật KH & CN ra đời đặt nền tảng pháp lý quan trọng để phát triển hoạt động thông tin KH&CN.
- Ngày Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 159/2004/NĐ-CP về hoạt động thông tin KH & CN nhằm cụ thể hoá Luật KH&CN.
- Năm 2001, Pháp lệnh Thư viện đã được ban hành, nhằm đẩy mạnh việc xây dựng, bảo tồn, khai thác và sử dụng vốn tài liệu, tăng cường công tác thư viện.
- Nhà nước thực hiện chính sách đầu tư đối với thư viện để đảm bảo cho các thư viện hoạt động, phát triển và hiện đại hoá.
- từng bước điện tử hoá các thư viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo, hình thành các kho điện tử công cộng và quốc gia.
- Như vậy, đường lối và kế hoạch của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến năm 2010 và năm 2020 đã và đang tạo cơ hội mới cho ngành TT – TV nói chung và các cơ quan TT - TV phục vụ nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV nói riêng phát triển theo hướng hiện đại để hội nhập.
- Mạng lưới các cơ quan TT, TV khoa học chuyên ngành thuộc các trường đại học/học viện/viện nghiên cứu & đào tạo các ngành KHXH & NV đã phát triển cả về số lượng và chất lượng.
- Về số lượng, hiện nay hầu hết các trường/học viện/viện nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV đều có các trung tâm thông tin khoa học hoặc thư viện.
- và một số viện/trung tâm nghiên cứu).
- Kinh tế thế giới, Viện Lịch sử, Viện Văn học, Viện Hán nôm, Viện Thông tin KHXH, Viện Dân tộc học, Viện Luật Nhà nươc & Pháp luật, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Viện Gia đình và giới, Viện Viện Châu âu, Viện Nghiên cứu Đông Nam á, Viện kinh tế Việt Nam, Viện Tôn giáo.
- Trường Đại học Vinh.
- Đại học Huế ( Khoa Luật, Khoa Du lịch, Trường Đại học Khoa học, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Nghệ thuật, Trường Đại học Sư phạm).
- Chỉ tính riêng vốn tài liệu do Thư viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Thông tin Khoa học Xã hội quản lý là một trong những thư viện có vốn tư liệu phong phú, quí hiếm về Đông phương học lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á.
- 5 CSDL thư mục do thư viện tạo lập: CSDL sách với 50617 nhan đề phản ánh 116285 bản sách, CSDL báo – tạp chí với hơn 584 biểu ghi, CSDL luận văn với 1940 nhan đề phản ánh 2981 luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ.
- 01 CSDL toàn văn do thư viện tạo lập: CSDL tài liệu số hoá.
- 03 CSDL toàn văn (từ nguồn mua): CSDL Báo cáo khoa học, CSDL thư viện điện tử, CSDL tạp chí tiếng Anh.
- Ngoài ra Thư viện còn một lượng lớn tài liệu về KHXH&NV dưới dạng truyền thống..
- Về đội ngũ cán bộ chuyên trách của các cơ quan thông tin, thư viện của các trường/học viện/viện nghiên cứu đều được tăng cường về số lượng và chú trọng về chất lượng.
- Tính bình quân số lượng cán bộ thư viện đại học/học viện/viện nghiên cứu trên toàn quốc khoảng 15 cán bộ/thư viện.
- Từ kết quả nghiên cứu của đề tài về đội ngũ cán bộ thư viện trong các trường đại học ở khu vực Hà Nội của khoa Thông tin – Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đã có nhận xét về ưu điểm: Đội ngũ cán bộ tuổi đời còn rất trẻ.
- Cơ sở hạ tầng đã được khởi sắc, được tăng cường đầu tư kinh phí và đổi mới làm hiệu quả hoạt động của các thư viện được nâng cao rõ rệt.
- Nhiều thư viện của các trường đại học đào tạo các ngành KH XH&NV đã và đang được hưởng dự án Giáo dục đại học, Dự án.
- nên hạ tầng công nghệ thông tin và phần mềm quản trị thư viện đã và đang được đầu tư khá hiện đại như Trung tâm TT –TV của Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG Tp.HCM.
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Viện Thông tin khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhiều sản phẩm và dịch vụ thông tin mới đã ra đời như sản phẩm thông tin Thư mục hay toàn văn theo chuyên đề.
- dịch vụ phục vụ thông tin có chọn lọc, dịch vụ tra cứu đa phương tiện, dịch vụ tra cứu trực tuyến, dịch vụ mượn về hay đọc tại chỗ, dịch vụ tra cứu truyền thống, sao chụp.
- Tất cả những thành tựu trên của hoạt động thông tin thư viện đã và đang góp phần quan trọng, đáng kể trong sự nghiệp nghiên cứu và đạo tạo các ngành KHXH&NV ở Việt Nam hiện nay.
- Bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ của hệ thống các thư viện chuyên ngành trong lĩnh vực KHXH&NV phục vụ nghiên cứu và đào tạo đã đạt được thì vẫn còn nhiều tồn tại.
- Hầu hết các thư viện đều mới chỉ bước đầu được tin học hoá, hay nói một cách khác mới “thoát thai”một phần từ thư viện truyền thống.
- Các thư viện vẫn chậm đổi mới, chưa theo kịp với sự phát triển của các thư viện hiện đại trên thế giới.
- Các cơ quan thông tin thư viện mới bước đầu được hiện đại hoá, chưa tự động hoá toàn phần.
- Về nguồn tài liệu: những sách tham khảo mới, đặc biệt tài liệu của nước ngoài phục vụ nghiên cứu và giảng dạy các ngành KHXH & NV vẫn còn chưa đầy đủ.
- Về hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở vật chất trang thiết bị chuyên dụng cho thư viện còn lạc hậu, chưa đồng bộ, chưa được trang bị đầy đủ.
- Cụ thể như hạ tầng phần cứng gồm hệ thống mạng, hệ thống máy chủ, máy trạm phục vụ cho công tác nghiệp vụ và tra cứu, hệ thống thiết bị an toàn thông tin.
- Các thiết bị chuyên dùng cho cơ quan thông tin, thư viện như: hệ thống thiết bị từ.
- Nhiều cơ quan thông tin thư viện chưa có phần mềm quản trị thư viện tích hợp.
- Điều kiện làm việc còn gặp khó khăn và mức thu nhập của cán bộ còn thấp chưa đảm bảo cuộc sống để yên tâm công tác ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành đội ngũ chuyên gia thông tin trong lĩnh vực KHXH&NV mang tính chuyên nghiệp/mẫn cán với nghề nghiệp.
- Về công tác tiếp thị, đào tạo kiến thức thông tin cho người dùng tin/các nhà quản lý/các nhà khoa học/nghiên cứu sinh/sinh viên cũng chưa được chú trọng vì vậy hiệu quả sử dụng, khai thác vốn thông tin/tài liệu KHXH & NV hiện có còn thấp.
- Để sứ mệnh của ngành TT – TV phát huy hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc đảm bảo thông tin/tài liệu phục vụ nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV theo tôi cần chú trọng một số giải pháp sau.
- Cần phát triển và đa dạng hoá nguồn tài nguyên thông tin KHXH&NV.
- Hơn nữa tài nguyên thông tin/tài liệu là phần cốt lõi của mỗi cơ quan TT, TV, vì vậy mỗi cơ quan TT TV cần xây dựng chính sách phát triển các bộ sưu tập tài liệu theo các ngành/chuyên ngành KHXH&NV trong đó chú trọng đến nguồn tài liệu điện tử.
- Định kỳ triển khai nghiên cứu nhu cầu tin KHXH&NV của người dùng tin và khả năng đáp ứng của thư viện để điều chỉnh diện bổ sung cho phù hợp.
- Nghiên cứu chính sách hợp tác, liên kết chia sẻ nguồn tài liệu/thông tin giữa các cơ quan thông tin thư viện KHXH&NV với nhau nhằm đảm bảo nguồn tin phong phú, đầy đủ.
- Da dạng hoá các loại hình dịch vụ, chú trọng phát triển các dịch vụ hiện đại Hiệu quả phục vụ thông tin hay nói cách khác là khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin/tài liệu của mỗi cơ quan TT, TV có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan TT, TV đó.
- Tổ chức các dịch vụ thông tin là khâu cuối cùng trong các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan TT, TV.
- Hiện nay với thành tựu của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các dịch vụ thông tin phát triển phù hợp với điều kiện, thói quen, nhu cầu sử dụng/truy cập thông tin của người dùng tin.
- Vì vậy các cơ quan TT, TV phục vụ nghiên cứu & đào tạo các ngành KHXH&NV cần tự động hoá các dịch vụ mượn/trả tài liệu như dịch vụ mượn qua mạng.
- dịch vụ mượn liên thư viện.
- dịch vụ cung cấp tài liệu theo yêu cầu của chủ đề /đề tài nghiên cứu.
- dịch vụ marketing quảng bá các sản phẩm, dịch vụ và nguồn lực thông tin/tài liệu của thư viện.
- Đảm bảo tài chính, trang bị đầy đủ hạ tầng công nghệ thông tin & cơ sở vật chất Các cơ quan TT, TV chuyên ngành KHXH&NV không phải là cơ quan hành chính sự nghiệp có thu, chính vì vậy để đảm bảo thông tin/tài liệu cho công tác đào tạo & nghiên cứu cần phải được đầu tư kinh phí thích đáng để hiện đại hoá hạ tầng công nghệ thông tin.
- Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của môi trường thư viện điện tử, thư viện số đang ngaỳ càng phát triển.
- Tập quán tra cứu và sử dụng thông tin vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại.
- Nhu cầu thông tin rất phong phú và đa dạng, vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính chuyên sâu về mọi lĩnh vực tri thức và có hàm lượng ‘‘chất xám’’ cao.
- Mục đích sử dụng thông tin chính của họ là nhằm đáp ứng hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập.
- Với đặc điểm như vậy, đòi hỏi nguồn nhân lực làm việc trong các cơ quan TT, TV chuyên ngành này phải có tri thức rộng, kỹ năng chuyên môn giỏi và lòng yêu nghề cao mới có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu thông tin cho người dùng tin KHXH&NV để nâng cao chất lượng đào tạo &NCKH.
- Như vậy, để có thể tổ chức vận hành hoạt động của một cơ quan TT,TV chuyên ngành KHXH&NV hiện đại có hiệu quả không phải chỉ cần có một nguồn thông tin/tài liệu đầy đủ,với hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, đội ngũ những người dùng tin có nhu cầu tài liệu thường xuyên mà vấn đề cốt yếu là phải có nguồn nhân lực – đội ngũ các chuyên gia TT, TV đáp ứng tốt yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ đang đổi thay nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin và viễn thông.
- Tăng cường sự quản lý Nhà nước đối với hệ thống các cơ quan TT, TV chuyên ngành nói chung và các ngành KHXH & NV nói riêng Để phát triển hệ thống các cơ quan TT, TV chuyên ngành một cách đồng bộ nâng cao hiệu quả hoạt động, thống nhất các chuẩn nghiệp vụ nhằm dễ dàng chia sẻ nguồn lực thông tin/tài liệu nói chung và tài liệu KHXH&NV nói riêng cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hệ thống này.
- Hệ thống thư viện công cộng có Vụ Thư viện của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
- Hệ thống thư viện Trường học (các cấp đào tạo từ tiểu học đến phổ thông) có Nhà xuất bản Giáo dục thuộc Bộ Giáo dục & Đào tạo).
- Các cơ quan thông tin, thư viện thuộc Bộ Khoa học & Công nghệ có Cục Thông tin Khoa học & Công nghệ.
- Nên chăng Vụ Thư viện thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao & Du lịch.
- Cục Thông tin Khoa học & Công nghệ Quốc gia thuộc Bộ Khoa học & Công nghệ, Vụ Giáo dục Đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có sự thống nhất trong việc điều hành, quản lý và chỉ đạo nghiệp vụ hệ thống các cơ quan TT, TV chuyên ngành.
- Đầu tư xây dựng thư viện hiện đại đáp ứng yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy, học tập góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học ở nước ta hiện nay//Bào cáo của Vụ Thư viện, Bộ Văn hoá-Thể thao & Du lịch tại HN Thư viện các trường đại học lần thứ nhất ngày tại Đà nẵng.- 20 tr.
- Sự nghiệp Thư viện Việt Nam, thời cơ, thách thức và triển vọng//Kỷ yếu Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo ngành TT-TV của Khoa TT-TV trường ĐHKHXH&NV.- 15 tr.
- Số liệu điều tra: nguồn nhân lực trong các cơ quan thông tin thư viện trên địa bàn Hà Nội, thực trạng và giải pháp/Đề tài đặc biệt cấp ĐHQG/ chủ trì đề tài: Trần Thị Quý.- H.: ĐHKHXH & NV tr.