« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghị luận Bài thơ về tiểu đội xe không kính


Tóm tắt Xem thử

- Nghị luận Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Văn mẫu 9 Nghị luận Bài thơ tiểu đội xe không kính mẫu 1.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật sáng tác từ những năm đầu mới vào bộ đội đã thể hiện khá rõ nét cách suy nghĩ này của ông..
- Ngay câu đầu tiên, đọc lên đã thấy trúc trắc, ngang ngang, không có vẻ là một câu thơ:.
- Không có kính không phải vì xe không có kính..
- Chỉ trong một câu thơ mà có đến ba chữ không, mà còn lặp đi lặp lại: không có kính, không có kính.
- chỉ để nói về cái "sự bất thường": xe không có kính.
- Ngay đến một bài văn thông thường, nếu lặp đi lặp lại quá nhiều mà không có dụng ý rõ ràng, rất có thể sẽ bị phê là "văn viết vụng về, lủng củng".
- Thế nhưng đây là điểm nhấn của bài thơ này.
- Ví dụ, trong bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan:.
- không chỉ thể hiện ở cách lặp lại các từ ngữ một cách đầy chủ ý mà còn ờ giọng điệu đùa vui, ờ cách đề cập đến những sự việc tưởng như "không có gì"..
- Không chỉ đưa vào thơ những chị tiết, hình ảnh của đời sống mà ngay cả ngôn ngữ thơ cũng được đổi mới triệt để nhằm có thể truyền tải những chi tiết về đời sống hàng ngày của những người lính một cách chân thực nhất.Những từ đệm, từ tình thái.
- được đưa vào thơ ngày càng nhiều (''không có kính, ừ thì có bụi’.
- "không có kính, ừ thì ướt áo") đã mang đến cho thơ chống Mĩ những sắc thái vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, gần gũi hơn mà cũng hấp dẫn hơn với đa số bạn đọc.
- Nhưng vượt lên tất cả hiện thực khốc liệt đó vẫn là thế giới tâm hồn của những người lính.
- Thông thường, khi cửa kính xe bị vỡ sẽ gây bao phiền toái: khói bụi vào mắt, mưa gió, cành cây...Tuy nhiên, với những người lính điều đỏ chưa hẳn đã là bất lợi.
- Ngược lại không có kính hoá ra lại hay:.
- Không phải những người lính đang cố quên đi gian khổ mà chính bản lĩnh, ý chí can trường cùng với tâm hồn lãng mạn kết hợp với tinh thần quyết tử xả thân vì nước đã giúp người lính vượt lên trên những gian khổ hàng ngày.
- Sức mạnh của những người lính trong thời đại Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống với lí tưởng thời đại.
- (Tố Hữu - Bài ca Xuân 68) Vốn bản tính khiêm nhường, những người lính không thích nói về chiến công, cũng không nói về những khó khăn, gian khổ Họ chỉ nói về công việc hàng ngày - một công việc nguy hiểm bậc nhất nhưng lại được kể bình thường như biết bao công việc bình thường khác.
- Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:.
- Không có cách lí giải nào giản dị mà thiêng liêng hơn thế.
- Không có kính, không có đèn.
- không có mui xe...rất nhiều chữ "không".
- là bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Bài thơ đã nối tiếp khúc ca về những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc..
- Nghị luận Bài thơ tiểu đội xe không kính mẫu 2.
- Từng là lính lái xe nên ông có những bài thơ viết rất hay về binh chủng này.
- “Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu.
- Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ..
- Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận.
- Mà độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ.
- “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
- Nguyên nhân xe không kính là vậy.
- Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp.
- Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:.
- Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả..
- Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn.
- Và cũng từ ca - bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe:.
- Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe..
- Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm.
- Cái tài của Phạm Tiến Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt..
- Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên..
- Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?.
- Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ.
- Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:.
- Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội xe không đèn, không mui xe.
- Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách.
- Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ là miền Nam thân yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm - trái tim người lính Bác Hồ..
- Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta..
- Nghị luận Bài thơ tiểu đội xe không kính mẫu 3.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969 trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra khá khốc liệt.
- Bài thơ sau đó được in trong tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa”.
- Bài thơ ca ngợi những chiến sĩ lái xe trong đoàn vận tải quân sự trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mĩ:.
- Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ.
- Bởi lẽ Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “Bài thơ.
- thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính, Xe không kính tức là xe hỏng,không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ.
- “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
- Câu thơ mở đầu như một câu văn xuôi, cách ngắt nhịp ba bảy, giọng thơ thản nhiên đã gây sự chú ý của người đọc về dáng vẻ kỳ lạ của chiếc xe – một chiếc xe được sử dụng để di chuyển trên chiến trường chiến tranh khốc liệt nhưng lại không có kính..
- Cấu trúc câu “không có kính… không phải vì…” như một lời phân bua giải thích cho sự “khiếm khuyết” của chiếc xe.
- Chiếc xe không có kính bởi một lẽ rất tự nhiên, hợp lý – do những trận bom rơi, đạn nổ đã khiến kính xe vỡ đi.
- Di chuyển trên chiến trường với một chiếc xe “không có kính” quả thật chả phải là ý kiến hay bởi lẽ không có sự bảo hộ của các tấm kính, khi bom, đạn nổ và đất trời mịt mù khói bụi, sinh mạng của người chiến sĩ buồng lái luôn cận kề nguy hiểm.
- Thế nhưng giọng điệu của hai câu thơ sau là một giọng điệu rất đỗi thản nhiên pha chút ngang tàng khiến người đọc cũng có cảm nhận như thể một chiếc xe vận chuyển không có kính không phải là một điều đáng lo ngại..
- Những người chiến sĩ ấy không hề liễu lĩnh mà đánh cược mạng sống của mình với tử thần, họ có tinh thần trách nhiệm và biết rõ trọng trách quan trọng mình đang gánh trên – vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí, con người để chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Và trên chặng đường vận chuyển đó, điều tất yếu khi lái xe là phải “nhìn đất” để phát hiện những chướng vật nguy hiểm trên đường, “nhìn trời” để phát hiện máy bay của địch mà tìm cách ứng phó, "nhìn thẳng” để sẵn sàng đối mặt với những hiểm nguy chực chờ, không sợ hãi, không né tránh.
- Chỉ với bốn câu thơ đầu, tác giả đã khiến người đọc thấm thía tinh thần gang thép và phẩm chất anh hùng của những người chiến sĩ lái xe.
- “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” việc thức khuya, lái xe đêm đã khiến đôi mắt thiếu ngủ của người chiến sĩ lái xe thêm trĩu nặng, nhưng vì không có sự ngăn cách của tấm kính, những cơn gió đã từ đâu lùa vào, nhẹ nhàng vỗ về, “xoa” dịu đôi mi anh.
- Bằng cách điệp các từ “nhìn”, động từ chỉ hoạt động, và từ “thấy”, từ chỉ cảm nhận, tác giả đem đến cho người đọc cảm giác đặc biệt như được sống lại vào thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, được cùng những người chiến sĩ lái xe rong ruổi trên những nẻo đường ra mặt trận.
- Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
- Cụm từ “không có kính, ừ thì” mang giọng điệu ngang tàng, không chút bất bình, tự trách, bình thản chấp nhận cái lẽ tự nhiên – xe không có kính thì người lái phải trực tiếp đối mặt mưa bụi của Trường Sa.
- Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
- Hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách mạng .
- Các anh tìm ra trong thiếu thốn những niềm vui đủ đầy, những niềm vui mà không ai khác ngoài những người lính lái xe mới có! Cơn mưa tuôn, mưa xối kia, những bụi bặm mù mịt kia là “gia vị” của đời lính.
- Những chiếc xe từ trong bom rơi Ðã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới.
- Ở đoạn thơ này, ta lại bắt gặp một chi tiết đã xuất hiện ở các đoạn thơ trước, “bom rơi” là một điều gì đó tan hoang, tàn khốc thế nhưng nó vẫn không thể hủy diệt đi tinh thần kiên cường, niềm tin vào một tương lai tươi sáng của những người chiến sĩ..
- Các chiếc xe vượt qua bao trận mưa bom, bão đạn của Trường Sơn, họp lại với nhau và tạo nên một khung cảnh vô cùng thú vị - một tiểu đội “xe không kính” được kết.
- nối với nhau bởi những cánh tay nước da đen sạm luồng qua các khung cửa “không kính”, họ hồ hởi, vui vẻ trao cho nhau những cái bắt tay đầy tình cảm, đây là biểu hiện của tình đồng đội thắm thiết.
- Chính những chiếc xe không kính đã trở thành chất keo gắn kết những con người xa lạ thành đồng chí, anh em, không có gì có thể cản lối con họ tiếp tục con “đường đi tới” mảnh đất miền Nam ruột thịt thân yêu..
- Khổ thơ đã ghi lại những giây phút dừng chân đầy tình yêu thương, đầm ấm của những người lính lái xe.
- Tự lúc nào, chiếc xe “không kính” đã trở thành nơi sinh hoạt gia đình, anh em đồng chí.
- Trên chiếc xe, những người chiến sĩ bày các “võng mắc chông chênh”, tận hưởng một giấc ngủ trưa bên dưới nền trời xanh thẳm và có những cơn gió lướt qua, dẫn lối các anh vào chốn mộng mơ.
- Không chỉ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”, những người đồng đội ruột thịt thân tình ấy còn “dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời”, sẵn sàng chia sẻ, “dùng chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
- Và họ tiếp tục thẳng tiến về phía trước, tiểu đội xe “lại đi, lại đi” và trời cứ dần “xanh thêm” vì trong tâm trí các anh, đã thấp thoáng bóng dáng lá cờ của chủ nghĩa hòa bình, lá cờ cách mạng đỏ thắm kiêu hãnh tung bay vào ngày đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất..
- Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:.
- (Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính) Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh đã khiến chiếc xe không những mất đi khung cửa kính mà cả đèn, cả mui xe cũng hỏng, để lại trên xe các vết xước hằn sâu mà sẽ mãi nhắc nhở ta về những năm tháng hoang tàn của quá khứ cùng sự nỗ lực không ngừng của những con người mang trong mình lý tưởng cao cả, để mang về ngày độc lập, bình yên cho dân tộc.
- hình ảnh hoán dụ tượng trưng đặc sắc nói lên tình yêu nước cháy bỏng của những người lính trẻ Trường Sơn.
- Kết cấu câu thơ cuối như một lời tả thực, một lời hứa quyết tâm sắt đá, “chiếc xe sẽ luôn tiến về phía trước dù xa kia là bao nguy khốn đang chực chờ, bánh xe sẽ mãi lăn chỉ cần niềm yêu thương dành cho miền Nam ruột thịt kia vẫn còn ngự trị trong trái tim những người chiến sĩ”..
- Tham khảo: Phân tích bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".
- của Phạm Tiến Duật.
- Cách phát hiện và khai thác đề tài độc đáo, hiện thực chiến tranh được tả thật đến từng chi tiết nhưng vẫn không kém phần lãng mạn cùng giọng thơ dí dỏm, tếu táo pha chút ngang tàng và tính cách phóng khoáng tiêu biểu của người lính là một yếu tố quan trọng giúp bài thơ ghi được dấu ấn trong lòng bao thế hệ.
- Khi so sánh với bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu, ta có thể nhận thấy Phạm Tiến Duật đã miêu tả rất chân thực nét tính cách riêng biệt của người lính thời kỳ kháng chiến chống Mỹ so với thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính nông dân ở thời đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc và một chút trầm tư sâu sắc.
- Còn ở Phạm Tiến Duật, là những người lính trẻ ngoan cường, ung dung, hóm hỉnh đầy lạc quan.
- Nhưng dẫu sao, hai thế hệ người lính trên đều mang trong mình tình yêu nước thiêng liêng, cháy bỏng, dẫn lối con tim họ vượt qua sợ hãi, mạnh mẽ, kiên cường chiến đấu vì Tổ quốc thân yêu,.
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ của Phạm Tiến Duật.
- Bài thơ là những tình cảm, lời miêu tả chân tình của một người từng trải nên chất lính càng đậm chất hơn.
- Có thể nói, bài thơ này không chỉ viết riêng về “tiểu đội xe không kính’” mà còn viết cho những người lính Trường Sơn.
- Nó là một bài thơ sẽ mãi sống cùng năm tháng, mãi mang trong mình niềm tự hào dáng vóc, con người Việt Nam..
- Trên đây VnDoc đã hướng dẫn các bạn học sinh Nghị luận Bài thơ về tiểu đội xe không kính, chắc chắn các bạn học sinh đã phần nào hiểu được nội dung của tác phẩm, ngoài bài viết này, chúng tôi còn giới thiệu đến các bạn một số bài viết khác trong những bài văn mẫu 9 có liên quan đến tác phẩm như: Kể lại buổi gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Cảm nhận về vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn thời chống Mỹ trong bài thơ "Bài thơ về Tiểu Đội Xe.
- Không Kính".
- của Phạm Tiến Duật, Soạn Văn 9: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Soạn bài lớp 9: Bài thơ về tiểu đội xe không kính....các bạn cùng tham khảo.