« Home « Kết quả tìm kiếm

NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN GIAN TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT


Tóm tắt Xem thử

- Cùng với tiến trình phát triển kinh tế và đô thị hoá nông thôn tại Việt Nam, một số lượng lớn di sản văn hoá vật thể có sở hữu tư nhân như nhà ở dân gian được xây dựng với vì kèo bằng gỗ đã và đang bị mất đi một cách nhanh chóng.
- Nghiên cứu này 3 dựa trên việc phân tích tổng hợp 4.287 tư liệu điền dã nêu trên, thông qua việc phân loại một cách hệ thống các hình thức vì kèo, kết hợp với những nghiên cứu về ý nghĩa của không gian và kết cấu, đặc trưng kỹ thuật, ngôn ngữ, so sánh giữa các địa phương, nhằm tìm ra những đặc trưng kiến trúc của nhà.
- Một số kết quả nghiên cứu về nhà ở dân gian Việt Nam đã được công bố trên tạp chí nghiên cứu khoa học của Hiệp hội Kiến trúc sư Nhật Bản (AIJ).
- Bài tham luận này sẽ tập trung thảo luận và đánh giá về những giá trị kiến trúc và nguồn gốc của các hình thức kiến trúc vì kèo của nhà dân gian trong bối cảnh lịch sử và văn hoá của Việt Nam..
- Tuy nhiên, giống như các di sản kiến trúc khác tại Việt Nam, nhà ở dân gian cũng chịu những tác động không nhỏ của thời gian, lịch sử và chiến tranh.
- Đây là một sự cản trở cho nghiên cứu cũng như là một mất mát không nhỏ đối với loại hình di sản kiến trúc này..
- Hơn 70% số nhà được điều tra đã được tiến hành sửa chữa đáng kể từ phía gia chủ như thu hẹp nhà, cắt bớt cột hoặc lắp ghép vì kèo.
- Tại miền Trung và miền Nam, toàn bộ các ngôi nhà điều tra đều được xây dựng trong khoảng thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.
- Kiến trúc nhóm nhà ở dân gian miền Bắc.
- Vì kèo là yếu tố cơ bản để tạo nên cấu trúc của một ngôi nhà.
- Mỗi bước cột có hai vì kèo nằm theo chiều sâu của nhà với cột được đặt trực tiếp lên chân đá tảng.
- Đối với vì thân có thể chia thành năm loại hình cơ bản dựa trên bố cục của các cột trong một vì kèo (hình 1).
- Sau khi phân tích tư liệu điền dã của 1.700 ngôi nhà tại bốn tỉnh miền Bắc (Bắc Ninh, Hà Tây, Nam Định và Thanh Hoá) có thể nêu lên một số đặc trưng kiến trúc của các hình thức vì kèo như sau:.
- Nhìn chung, vì thân loại 1 thường được xây dựng tại những ngôi nhà có quy mô lớn, với kích thước cột lớn (đường kính cột cái nằm trong khoảng từ 270~360mm), bước cột và bước gian rộng (chiều rộng giữa hai cột cái trong một vì kèo lớn hơn 2.600mm).
- Cấu tạo kiến trúc liên kết giữa cột cái, kẻ ngồi và câu đầu được sử dụng kỹ thuật chồng đè, ít sử dụng đến kỹ thuật xẻ mộng.
- Có thể nói đây là hình thức ít phổ biến.
- Một số ngôi nhà có hình thức này có thể đã được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII hoặc đầu thế kỷ XVIII nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm thấy những cơ sở xác thực để chứng minh năm xây dựng này..
- Tuy nhiên, dựa trên những đánh giá về hiện trạng cũng như kỹ thuật kết cấu vẫn có thể kết luận đây là hình thức vì kèo cổ điển nhất của nhà ở dân gian miền Bắc..
- Hình thức này xuất hiện ở cả những ngôi nhà với quy mô lớn, vừa và nhỏ.
- Rõ ràng, vì kèo loại 2 mang tính phổ cập và được duy trì lâu hơn loại 1.
- Vì thân loại 3, là hình thức vì kèo trốn cột, xuất hiện phổ biến ở cả bốn tỉnh..
- Việc trốn đi một hoặc hai cột trong một vì kèo, cũng như lược bớt một vài thanh xà đã thể hiện một bước tiến vượt bậc về mặt kỹ thuật kết cấu so với các hình thức loại 1 và loại 2.
- Thông qua việc bỏ đi một số cột tại các vị trí khác nhau trong vì kèo loại 3, đã tạo nên những không gian phong phú.
- Vì thân loại 3(4) với cấu trúc trốn một cột quân phía trước và một cột cái phía sau được xem như là hình thức hoàn thiện cuối cùng của quá trình phát triển này.
- Bên cạnh những yếu tố truyền thống, vì thân loại 3 cũng được xem như là đại biểu của những hình thức kiến trúc mới.
- Nó thường được xây dựng tại những ngôi nhà có quy mô vừa phải.
- Việc lược bỏ xà lòng liên kết giữa hai cột cái trong vì kèo đã làm cho hình thức này có nét đặc trưng tương đồng với kiến trúc được sử dụng phổ biến trong các công trình tín ngưỡng công cộng như đình, đền, chùa.
- Trên thực tế, một số các ngôi nhà ban đầu được xây dựng với hình thức vì thân loại 2, về sau khi chuyển đổi chức năng sử dụng từ nhà ở sang nhà thờ họ, hoặc khi trong nhà có người thi đỗ Trạng nguyên họ đã tháo bỏ đi xà lòng.
- Do đó, mặc dù hình thức này đã được phổ biến trong các công trình công cộng từ trước đó rất lâu, nhưng nó mới được du nhập và phổ cập trong kiến trúc nhà ở dân gian từ khoảng nửa sau thế kỷ XIX, khi chế độ phong kiến cuối cùng ở nước ta bước vào giai đoạn suy thoái..
- Điều này cho thấy, hình thức vì thân này đã được sử dụng để xây dựng những công trình có chức năng sử dụng khác nhau.
- Tóm lại, có thể khẳng định rằng vì thân loại 1 và loại 2 là những hình thức cổ truyền đặc trưng cho kiến trúc nhà ở dân gian miền Bắc, chúng đã được sử dụng để xây dựng những ngôi nhà cổ với quy mô lớn, đa số chỉ thấy xuất hiện tại Bắc Ninh và Hà Tây.
- Bên cạnh đó, những hình thức vì kèo loại 3, loại 4 và loại 5 được coi như là những hình thức mới được xây dựng phổ cập ở Nam Định và Thanh Hoá, những nơi cho đến nay không tìm thấy dấu vết của các vì thân loại 1 và loại 2.
- Ngoài ra, tại Bắc Ninh, vì kèo loại 5 hầu như chỉ được sử dụng để xây dựng nhà tiền tế ba gian, trong khi đó tại Nam Định và Thanh Hoá lại được phổ cập để xây dựng nhà ở..
- Hình 3 mô tả sự phát triển của các hình thức vì thân và sự kết hợp của nó với các loại hình vì nóc chính..
- Hình 3: Niên đại và quá trình phát triển của các loại vì kèo nhà ở dân gian miền Bắc.
- Kiến trúc nhóm nhà ở dân gian miền Trung và miền Nam.
- Đặc trưng trong bố cục mặt bằng của nhà ở dân gian miền Trung và miền Nam là tổng thể nhà ở bao gồm nhiều nếp nhà được xây dựng với mái liền kề..
- Đa số các nhà được xây dựng với hình thức bốn mái có đầu hồi..
- Tại miền Nam, do vì kèo thường có bước cột lớn và chiều sâu của nhà gấp đôi so với các địa phương khác, nên mặt bằng thường được chia theo bố cục trước sau, nhưng vẫn đảm bảo tính đối xứng..
- Khác với miền Bắc, tại miền Trung và miền Nam đã sử dụng kèo chồng tạo nên một cấu trúc vì kèo mang tính thống nhất (không chia thành vì thân và vì nóc)..
- Hình 4: Các lo ại vì kèo của nhà ở dân gian miền Trung và miền Nam.
- Tại đây các hình thức vì kèo được chia thành hai loại chính (hình 4).
- Mặc dù cuộc điều tra đã được tiến hành trên một không gian rộng từ Thừa Thiên – Huế cho đến Tiền Giang với tổng số 2.016 ngôi nhà, nhưng đã không tìm thấy các hình thức vì kèo đa dạng như ở miền Bắc.
- Cấu trúc vì kèo có một cột giữa này cũng có đặc trưng giống như hình thức vì kèo nguyên thuỷ với các cột được chôn xuống đất 10.
- Trong một số trường hợp, cả xà nối các cột giữa của các vì kèo với nhau cũng được lắp mộng vào đầu cột.
- Điều này chứng tỏ bên cạnh việc cố gắng duy trì hình thức truyền thống ở nhà trên thì tại nhà dưới đã có những sự thay đổi cho phù hợp và thuận tiện hơn cho sinh hoạt..
- Ảnh 1: Nguyên lý kiến trúc.
- và vì kèo nguyên th uỷ Ảnh 2: Cánh dơi và kỹ thuật.
- (4) Nhà rương, nhà rường và nhà xuyên trính là các tên gọi tương ứng với các nhà có hình thức vì kèo loại 2.
- Cấu trúc này có hai cột ở trung tâm vì kèo (cột hàng nhất) nằm về hai phía đối xứng với đòn đông.
- Cách gọi tên nêu trên đã được Alexandre de Rhodes giải thích trong một cuốn từ điển năm 1651, do đó các hình thức kiến trúc này chắc chắn đã được tồn tại từ khoảng giữa thế kỷ XVII.
- (5) Kỹ thuật của vì kèo loại 2 với trụ chống nóc là hình thức được phát triển lên từ vì kèo nguyên thuỷ loại 1.
- Trên nguyên tắc chung, loại 2 đã áp dụng nguyên lý kỹ thuật tương tự như trường hợp vì kèo nhà dưới (nêu trong phần (3.
- Phân tích chi tiết cấu tạo giữa trụ, kèo và đòn đông cho thấy hình thức xẻ mộng ở đầu trụ để lắp hai kèo vào đầu cột là kỹ thuật đã được sử dụng ở vì kèo loại 1 (hình 5 – 1).
- Ngược lại, qua những hình thức khác như:.
- Hơn nữa, trong quá trình xây dựng trụ cũng được lắp vào sau khi đã hoàn thành cơ bản vì kèo.
- Đặc biệt tại miền Nam, mặc dù quy mô của vì kèo và của nhà được mở rộng đáng kể nhưng trụ lại được làm ngắn đi.
- Những điều này chứng tỏ vai trò kết cấu của trụ đã bị giảm đi, thay vào đó là hình thức của trụ, cánh dơi và đấu đã được cách điệu hoá với những điêu khắc trang trí phong phú (hình 5–2,3).
- Phải chăng, trụ đã trở nên một biểu tượng hoá của cột giữa trong vì kèo truyền thống loại 1? Cũng cần lưu ý rằng tại miền Trung và miền Nam hình thức vì kèo loại 2 cũng được sử dụng trong việc xây dựng các công trình đình, chùa, nhà thờ họ và trong cả đại nội..
- Điều này gợi lên những liên tưởng đến hình thức nhà kho bằng gỗ có sàn cao được phổ biến tại vùng Đông Nam châu Á và vùng bờ biển phía đông lục địa Trung Quốc..
- Hình 6 là một giả thuyết mô phỏng quá trình hình thành và phát triển vì kèo của nhà ở dân gian miền Trung và miền Nam..
- Hình 6: Mô hình s ự hình thành và phát triển vì kèo của nhà ở dân gian miền Trung và miền Nam.
- Đặc trưng của kiến trúc nhà ở dân gian Nghệ An.
- Con số thực tế này khiến cho chúng ta phải quan tâm đến những nét đặc trưng khác biệt của kiến trúc nhà ở dân gian Nghệ An..
- Cho đến nay tại các tỉnh đã tiến hành điều tra thì không tại nơi nào bắt gặp hình thức mặt bằng với số gian chẵn và có gian bảy với mục đích sử dụng giống như ở Nghệ An (hình 7)..
- Kết cấu vì kèo.
- Bên cạnh những nét đặc trưng trong bố cục mặt bằng, kết cấu vì kèo của nhà ở dân gian Nghệ An cũng có những điểm khác biệt.
- Tuy nhiên, cấu tạo của mái hoàn toàn khác với hình thức bốn mái của cả hai nhóm nhà nêu trên.
- Trên thực tế, cấu trúc mái ở đây không có mối liên hệ đáng kể với cấu trúc của vì kèo ở hai bên hồi, do đó có thể phỏng đoán rằng nó đã được “ngói hoá” của hình thức mái lợp rơm ở đầu hồi.
- địa phương khác nên vì kèo thường chỉ 1 gian hoặc 3 gian.
- Theo số liệu điều tra thì 64% nhà ở tại Nghệ An đã có hình thức vì thân loại 3(1) và 3(2) giống như nhóm nhà ở dân gian miền Bắc, và 7% số nhà có hình thức vì kèo loại 2 và loại 4.
- Nhìn chung, tất cả các vì kèo nêu trên đều được xây dựng với quy mô nhỏ và được đơn giản hoá so với vì kèo nguyên gốc ở miền Bắc.
- Bên cạnh những hình thức vì kèo nêu trên, tại Nghệ An còn xuất hiện hai hình thức vì kèo hoàn toàn khác so với các tỉnh đã tiến hành điều tra, đặc biệt là các tỉnh ở miền Bắc.
- Một là, hình thức vì kèo đơn giản được cấu thành từ hai cột với một thanh dầm dài nối phía đầu hai cột.
- Mặc dù ngôi nhà này mới được xây dựng năm 1942, nhưng có thể cho rằng hình thức vì kèo đơn giản này không có chung cội nguồn với các hình thức vì kèo miền Bắc mang nhiều ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc lục địa.
- Hai là, hình thức vì kèo có cột giữa hoặc có trụ chống lên tận nóc.
- Hình thức vì kèo này tương tự như hình thức vì kèo loại 1 ở miền Trung và miền Nam, tuy nhiên đa số chúng đều sử dụng hình thức kèo kẹp và có quy mô nhỏ hơn rất nhiều..
- Hình thức kèo kẹp ở đây đã gợi đến hình ảnh của cấu trúc kèo tre nguyên thuỷ.
- Tại Nghệ An, vì kèo với cấu trúc kẻ ngồi và kỹ thuật xẻ mộng đầu cột giống như hình thức vì kèo ở miền Bắc được phổ biến và chiếm đại đa số, tuy nhiên, trong một số trường hợp trong một nhà đã sử dụng cả hai hình thức kẻ ngồi và kèo kẹp.
- Việc sử dụng cùng một lúc hai hình thức vì kèo này tại những vị trí khác nhau đã cho thấy ưu thế của hình thức vì kèo với cấu trúc kẻ ngồi so với cấu trúc kèo kẹp.
- Mặc dù những ngôi nhà sử dụng hình thức kèo kẹp đều mới chỉ được xây dựng cách đây hơn nửa thế kỷ, nhưng có thể chúng có nguồn gốc và được phát triển lên từ kiến trúc truyền thống bản địa..
- Mặc dù nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích một số lượng lớn tư liệu điều tra về nhà ở dân gian của dân tộc Việt tập trung chủ yếu tại các vùng đồng bằng nhưng kết quả đã tìm thấy một số hình thức vì kèo đa dạng với những nét đặc thù của từng địa phương.
- Tuy nhiên, kết quả cho thấy dưới góc độ văn hoá kiến trúc nhà ở, nhóm kiến trúc nhà ở miền Trung và miền Nam là một hệ thống phát triển tương đối liên hoàn bên cạnh nhóm kiến trúc nhà ở miền Bắc..
- Ở miền Bắc, kiến trúc nhà ở dân gian tương đối đa dạng với năm hình thức khác nhau của vì kèo.
- Sự đa dạng của các hình thức vì kèo được hình thành dựa trên những quan niệm tín ngưỡng và nhu cầu thực tế.
- Quá trình phát triển và sự phân bố của năm hình thức kiến trúc vì kèo đã phản ánh những bối cảnh lịch sử, kinh tế và văn hoá của từng địa phương..
- Điều này là một cản trở không nhỏ đến việc nghiên cứu quá trình phát triển của các hình thức nhà ở tại miền Trung và miền Nam.
- Mặc dù tiếp thu tối đa những kỹ thuật gỗ cơ bản của miền Bắc, nhóm nhà ở miền Trung và miền Nam vẫn không ngừng phát huy và hoàn thiện những đặc trưng kiến trúc mang tính bản địa riêng biệt.
- Về sau, các hình thức truyền thống đã được cách điệu hoá kết hợp với trang trí để trở nên như một biểu tượng hoá..
- Những đặc trưng kiến trúc khác biệt của nhà ở dân gian Nghệ An là cơ sở để khẳng định tính ưu việt và tính chính thống của kiến trúc vì kèo miền Bắc.
- 3 Tác giả đã trực tiếp tham gia chương trình điều tra tại 10 tỉnh thành tại Việt Nam từ năm kết hợp với những tư liệu điền dã của cá nhân để nghiên cứu và hoàn thành luận văn Tiến sỹ về “Lịch sử kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống dân tộc Việt” tại Tokyo Metropolitan University..
- 4 Năm tiêu chí được đặt ra trong việc tuyển chọn các đối tượng điều tra tại mỗi địa điểm (tính theo đơn vị làng) là: (1) Những ngôi nhà cổ nhất, (2) Những ngôi nhà có cơ sở chắc chắn để xác định năm xây dựng như dấu tích trên câu đầu, thượng lương, gia phả… và có năm xây dựng trước 1945, (3) Những ngôi nhà có tình trạng bảo tồn tốt, (4) Những ngôi nhà có quy mô lớn và tổng thể hoàn thiện, (5) Những ngôi nhà có hình thức kiến trúc đặc biệt..
- Ngôi nhà có kiến trúc lớn bảy gian với kết cấu vì kèo được làm cẩn thận và kỹ xảo, nguyên gốc ngôi nhà này bao gồm hai nếp nhà bảy gian kế tiếp nhau, nhưng đến thời điểm điều tra, nhà tiền tế đã bị phá dỡ.
- 10 Hình thức này trong kiến trúc truyền thống Nhật Bản gọi là Hottate-bashira..
- [7] Chu Quang Trứ, Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật, 1994..
- [32] Ngô Huy Quỳnh, Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam, NXB Xây dựng, 1992..
- [33] Nguyễn Bá Lăng, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, NXB Hoa Cau, 1989..
- [37] Nguyễn Hồng Kiên, “Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt”, tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 3, 1996..
- [55] Phan Thanh Hải, “Hệ thống thước đo thời Nguyễn”, tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 3, 2003, tr.
- [79] Vũ Tam Lang, Kiến trúc cổ Việt Nam, NXB Xây dựng, 1994.