« Home « Kết quả tìm kiếm

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI


Tóm tắt Xem thử

- những kết quả đạt được và cả những hạn chế, yếu kém để từ đó đề xuất kiến nghị và giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội vì mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam..
- (ii) những bước phát triển mới về hoạt động lập pháp của Quốc hội.
- Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội..
- Chính vì vậy mà tổ chức và hoạt động của Quốc hội đã có sự đổi mới đáng kể trong quá trình thực hiện chính sách Đổi mới.
- nhấn mạnh đến mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động lập pháp của Quốc hội với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- Ông nhấn mạnh, “cần thấy rằng, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật mà nội dung trọng tâm là hoạt động làm luật của Quốc hội..
- Quyền lực của Quốc hội kết tinh trong các quy định của Luật” (2).
- tháng 12 năm 2007, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các khoá trong phạm vi thẩm quyền của mình đã xây dựng và thông qua 4 bản Hiến pháp, 203 luật, bộ luật, 203 pháp lệnh và 340 nghị quyết.
- Riêng trong 8 kỳ họp của Quốc hội khoá IX đã thông qua được 47 luật và 26 pháp lệnh..
- Thông qua hoạt động lập pháp của Quốc hội đã làm xuất hiện một số ngành luật mới như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật về giải quyết các tranh chấp dân sự và kinh tế..
- Trên cơ sở này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (tháng 7/1994), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (1995) và Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996), Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài (1993), Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài (1995)..
- Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội.
- Mặc dù hoạt động lập pháp của Quốc hội đã có sự đổi mới đáng kể, số lượng các đạo luật được ban hành ngày càng nhiều, nhưng nhìn chung “công tác xây dựng pháp luật còn thiếu chủ động, thiếu đồng bộ.
- Quốc hội chưa có chương trình xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ (4) được ban hành một cách kịp thời, từ đầu nhiệm kỳ.
- Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập pháp của Quốc hội..
- xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội….
- Trong quá trình ấy, rất cần sự tham gia tích cực của các chủ thể khác như các uỷ ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong các công đoạn tiếp theo của quy trình lập pháp nhằm làm cho chính sách pháp luật được kết tinh trong văn bản luật, pháp lệnh có tính khả thi..
- Ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có nhiều loại văn bản gồm: (i) các văn bản của Quốc hội: Hiến pháp, luật, nghị quyết.
- (ii) Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Trong khi đó, pháp lệnh do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành có thể được Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại.
- Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (8.
- Trên thực tế cho đến nay chưa có trường hợp nào mà Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại các Pháp lệnh đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua..
- Để bảo đảm hiệu lực pháp lý tối cao của các đạo luật do Quốc hội ban hành, chúng ta chủ trương "giảm dần pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ quy định những vấn đề chưa có luật.
- Trong nhiều trường hợp, phạm vi điều chỉnh của các văn bản dưới luật đã vượt ra ngoài phạm vi lập pháp được quy định trong luật do Quốc hội ban hành..
- từ các các cơ quan khác [16] và “về lâu dài, toàn bộ chức năng lập pháp phải do Quốc hội thực hiện, còn việc ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ tồn tại như một bước quá độ trong một số năm” [17]..
- Pháp lệnh quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành luật".
- "thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định".
- Tiếp đó là cần làm rõ những lĩnh vực mà Quốc hội có thể uỷ quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc giao Chính phủ ban hành.
- Ví dụ, công thức đang áp dụng là "pháp lệnh quy định về những vấn đề được Quốc hội giao".
- có thể dẫn đến hiểu rằng, Quốc hội có thể uỷ quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh về bất kỳ lĩnh vực nào..
- Vừa qua, nhiều pháp lệnh được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành và sau một thời gian thực hiện được thực tiễn kiểm nghiệm đã nâng lên thành luật.
- Thông qua việc thực hiện các chức năng lập pháp và giám sát tối cao của mình, Quốc hội còn góp phần bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước.
- Tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội còn quy định.
- Tình trạng này, theo suy nghĩ của chúng tôi, chính là do sự không tương thích về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này với cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có 18 thành viên (14.
- Từ đó, cần xem xét lại tính khả thi của quy định giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và thiết lập cơ chế khác hữu hiệu hơn.
- Hoạt động lập pháp của Quốc hội được khởi đầu bằng việc thực hiện sáng kiến lập pháp của các chủ thể do Hiến pháp 1992 quy định.
- riêng đại biểu Quốc hội còn có quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh.
- Kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.
- đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các chủ thể nêu trên được gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ (16).
- Thực tế ở Việt Nam cho thấy, hoạt động lập pháp và quy trình xây dựng pháp luật là hai mặt của một vấn đề: không thể tiến hành hoạt động làm luật của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mà lại không theo một quy trình nhất định và sự tham gia của các chủ thể khác nhau trong quy trình đó.
- Lần đầu tiên quy trình lập pháp của Quốc hội đã được cụ thể hoá thành Quy chế xây dựng luật và pháp lệnh.
- Như vậy, từ năm 1988 đến nay, công tác xây dựng luật, pháp lệnh được tiến hành theo kế hoạch/chương trình và được đánh giá là một đặc điểm nổi bật trong hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam.
- Theo ý kiến chung của các nhà nghiên cứu và làm công tác thực tiễn ở Việt Nam, ý nghĩa của việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả nhiệm kỳ hoặc cho từng năm công tác hoặc kỳ họp của Quốc hội (18) là làm cho hoạt động lập pháp của Quốc hội có tính chủ động, tính dự báo, hạn chế tình trạng lập pháp tình thế [21].
- Đây có thể được xem là hình thức lập pháp uỷ quyền, giới hạn những loại vấn đề mà Quốc hội uỷ quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dưới hình thức pháp lệnh.
- Tiếp đó, Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1997 (20) và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (21) để cụ thể hoá quy trình làm luật ở Việt Nam..
- (iv) Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến.
- (vi) lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội.
- Ví dụ, trách nhiệm của Chính phủ và uỷ ban của Quốc hội trong việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh như sau:.
- (iii) Căn cứ vào dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh, ý kiến thẩm tra của Uỷ ban Pháp luật, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xây dựng dự án Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và trình Quốc hội quyết định (23.
- Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội có thể quyết định điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (24).
- Quốc hội xem xét thông qua dự án luật sau khi nghe thuyết trình, báo cáo thẩm tra.
- Quốc hội thảo luận dự án luật tại phiên họp toàn thể sau khi đã thảo luận ở Đoàn và tổ đại biểu (26.
- Đoàn thư ký kỳ họp phối hợp với cơ quan thẩm tra và cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự kiến chỉnh lý dự án và báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Dự án luật được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành..
- Điều cần chú ý là việc đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội được tiến hành trong bối cảnh số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách tăng lên đáng kể, nhất là ở Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội.
- Từ những điều đã trình bày ở trên cho thấy, muốn nâng cao chất lượng quy trình lập pháp của Quốc hội cần phải xử lý nhiều vấn đề có mối quan hệ tác động lẫn nhau.
- Đồng thời, chúng ta cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các chủ thể tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội mà trước hết là các ban soạn thảo chuyên trách.
- (ii) Ban Soạn thảo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thành lập (27.
- Thứ tư là, nâng cao chất lượng công tác thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội.
- Quy định hiện hành cho thấy, trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình dự án luật thì Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó.
- Đối với dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội trình thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra.
- Đối với các dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng Dân tộc và các uỷ ban khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra thì Uỷ ban.
- Pháp luật của Quốc hội tham gia thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật..
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật xác định rõ hơn so với trước đây nội dung thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội đối với các dự án luật, pháp lệnh.
- Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1997, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh.
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định những vấn đề cụ thể của việc lấy ý kiến nhân dân, chỉ đạo việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và việc tiếp thu ý kiến nhân dân để chỉnh lý dự án.
- Việc lấy ý kiến đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội về dự án luật được tiến hành chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội hoặc ngày bắt đầu phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận dự án luật, pháp lệnh tại địa phương và gửi biên bản thảo luận về Văn phòng Quốc hội chậm nhất là 7 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội (đối với dự án luật) và trước ngày bắt đầu phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (đối với dự án pháp lệnh)..
- Trong những nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định lấy ý kiến nhân dân đối với các dự án luật, bộ luật như: Bộ luật Hình sự.
- gửi lấy ý kiến đại biểu Quốc hội đối với những dự án pháp lệnh quan trọng, có nhiều nội dung phức tạp..
- Việc thảo luận tại tiểu ban có thể do Phó Chủ tịch Quốc hội hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban chủ trì.
- Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội.
- Nhằm bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan “làm luật” chứ không chỉ đơn thuần là xem xét, thông qua luật, yêu cầu cấp thiết hiện nay là tăng cường năng lực hoạt động lập pháp của Quốc hội.
- Ở đây, có quan niệm cho rằng, năng lực lập pháp của Quốc hội là khả năng biến ý chí của nhân dân thành ý chí nhà nước, thành luật [26].
- Như đã trình bày, năng lực lập pháp của Quốc hội chính là khả năng của cơ quan này thảo luận sâu rộng và quyết định những vấn đề cơ bản thuộc nội dung chính sách để làm cơ sở cho việc xây dựng các văn bản luật có tính khả thi cao.
- Năng lực lập pháp của Quốc hội gồm nhiều yếu tố cấu thành, từ: (i) khả năng tham gia hoạt động lập pháp của các đại biểu Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội, sự chuẩn bị và trợ giúp của bộ máy giúp việc của Quốc hội.
- Điều quan trọng nhất trong việc tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội là nâng cao năng lực lập pháp của các thiết chế cơ bản nhất tạo nên Quốc hội, đó là năng lực hoạt động lập pháp của đại biểu Quốc hội và các cơ quan Quốc hội..
- Điều quan trọng tiếp theo là tiếp tục tăng thêm số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, ít nhất là bảo đảm tất cả thành viên của các cơ quan của Quốc hội trong nhiệm kỳ tới phải hoạt động chuyên trách.
- Vấn đề thứ hai là kiện toàn lại cơ cấu tổ chức của các cơ quan của Quốc hội..
- Mỗi cơ quan của Quốc hội phải theo dõi, giám sát các lĩnh vực hoạt động khác nhau của nhiều bộ, ngành.
- còn có nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua (33).
- Vấn đề thứ ba là nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội trong lĩnh vực được phân công.
- Điều này có ý nghĩa quan trọng vì theo Luật Tổ chức Quốc hội, tất cả các dự án luật, dự án báo cáo trước khi trình Quốc hội hay dự án pháp lệnh trước khi trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, quyết định đều phải được các cơ quan này thẩm tra..
- Hiện tại chưa có đánh giá một cách đầy đủ tác động của việc thẩm tra đối với chất lượng của các dự án luật, báo cáo được Quốc hội thông qua.
- Ý nghĩa thực tế của việc thẩm tra là nhiều đại biểu Quốc hội đã tham khảo ý kiến của cơ quan thẩm tra để phát biểu ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh.
- của các cơ quan của Quốc hội và của cá nhân đại biểu Quốc hội.
- Theo hướng này, cần triển khai thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội để có cơ chế tổ chức công tác thông tin, nghiên cứu phục vụ Quốc hội một cách có hiệu quả hơn;.
- Thành công của hoạt động lập pháp và ở mức độ đáng kể, của việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền, phụ thuộc vào mức độ hài lòng của người dân về những giải pháp lập pháp do Quốc hội đưa ra.
- Rõ ràng là đổi mới Quốc hội góp phần tích cực vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- (4) Đến kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá X mới thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả nhiệm kỳ Quốc hội khoá X theo Nghị quyết số 19/1998/QH10 ngày 2/12/1998..
- (14) Cụ thể: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có Chủ tịch Quốc hội, 4 Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội.
- (20) Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông.
- (21) Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày .
- (25) Ví dụ, thời gian qua Quốc hội cũng đã xem xét một số dự án luật tại nhiều kỳ họp.
- (26) Đoàn đại biểu Quốc hội gồm các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- còn Tổ đại biểu gồm nhiều Đoàn đại biểu để tổ chức trao đổi, thảo luận về dự án luật trong thời gian kỳ họp Quốc hội..
- đại biểu Quốc hội 1992 (sửa đổi) thì Ban Soạn thảo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thành lập và trình các dự án đó..
- (33) Luật Tổ chức Quốc hội 2001, Điều 27..
- [22] Nguyễn Quang Minh, Ngô Trung Thành, “Một số vấn đề về Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2, 1999, tr.13.