« Home « Kết quả tìm kiếm

Những vấn đề chung về cung cầu tiền tệ


Tóm tắt Xem thử

- Những vấn đề chung về cung cầu tiền tệ 1.
- Cung tiền tệ.
- Cung tiền tệ là khối lượng tiền cung ứng của nền kinh tế đảm bảo các nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hóa, cũng như các nhu cầu chi tiêu trao đổi khác của nền kinh tế xã hội..
- Nói cách khác, mức cung tiền tệ là toàn thể khối tiền tệ đã được cung cấp cho nền kinh tế trong một thời kỳ được xác định.
- Mức cung tiền tệ đã cung ứng cho nền kinh tế tạo thành khối tiền tệ..
- Khối tiền tệ M1 (là tiền giao dịch).
- Nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hóa mà không phải qua bước chuyển đổi nào, với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng gồm:.
- Ba bộ phận của tiền mặt này còn gọi là cơ số tiền tệ, hay tiền cơ bản của nền kinh tế.
- Tiền gửi không kỳ hạn: là một khoản cho vay của người gửi đối với ngân hàng.
- Khác với tiền gửi có kỳ hạn (là tiền gửi chỉ được lấy ra khi đã đến kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng.
- tiền gửi không kỳ hạn được rút ra bất kỳ lúc nào người gửi có nhu cầu.
- Khoản tiền gửi này được xem là tiền giao dịch bởi vì người gởi tiền (chủ tài khoản) bất kỳ lúc nào cũng có thể sử dụng tiền trên tài khoản này để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ....
- Tiền gửi không kỳ hạn là một khoản Nợ của ngân hàng, nên ngân hàng phải trả lãi cho người chủ tài khoản..
- Khối tiền tệ M2 (tiền tài sản hay là chuẩn tệ).
- Khối tiền tệ M2 được gọi là khối tiền tệ tài sản hay “chuẩn tệ” như tiền gởi tiết kiệm, tiền gởi định kỳ..
- Khi ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ, thì người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và sẽ làm gia tăng khả năng tiền mặt của các ngân hàng, hoặc khi lãi suất giảm người dân sẽ rút tiền ra, làm giảm khả năng cung ứng tiền mặt của ngân hàng..
- Các khoản tiền gởi có kỳ hạn.
- Các loại chứng chỉ tiền gửi.
- Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ Tiền gửi có kỳ hạn (còn gọi là tiền gửi định kỳ).
- Tiền gửi có kỳ hạn được phân biệt thành tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ và tiền gửi có kỳ hạn loại lớn..
- Hầu hết tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ là tiền gửi của nhân dân lao động, của những người về hưu..
- Mỗi khoản tiền gửi tuy nhỏ, nhưng số tiền gửi của mấy triệu người cộng lại trở thành một nguồn vốn tín dụng lớn và ổn định của các ngân hàng thương mại.
- Những khoản tiền gửi có kỳ hạn loại lớn của những người tích lũy dần để mua nhà, đất, tài sản cố định có giá trị cao, tiền để dành cho con cháu sau này.
- Tiền gửi có kỳ hạn ở Việt Nam được gửi định kỳ theo quy định của NHNNVN.
- Chứng chỉ tiền gửi (CDs).
- Một loại tiền gửi khác thực hiện dưới hình thức NHTM phát hành giấy chứng nhận tiền gửi hay chứng chỉ tiền gửi (certificate of deposits - CDs).
- Chứng chỉ tiền gửi được phát hành theo hai cách: phát hành theo mệnh giá và phát hành dưới hình thức chiết khấu..
- Khi ngân hàng phát hành theo mệnh giá, người mua chứng chỉ tiền gửi trả tiền theo giá trị đã ghi trên tờ phiếu, đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ trả vốn gốc (mệnh giá) cộng với tiền lãi (mệnh giá X lãi suất).
- Khi ngân hàng phát hành chứng chỉ tiền gửi dưới hình thức chiết khấu, giá mua bằng mệnh giá trừ số tiền chiết khấu, và khi đến hạn ngân hàng sẽ thanh toán bằng mệnh giá..
- Đối với tiền gửi tiết kiệm ở Việt Nam có nhiều hình thức:.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, người gửi có thể gửi nhiều lần và được rút ra theo nhu cầu sử dụng, vẫn được hưởng lãi..
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích, đây là loại tiền gửi tiết kiệm trung hạn và dài hạn nhằm mục đích mua sắm tài sản cố định hay làm nhà ở.
- Người gửi loại tiết kiệm này sẽ được ngân hàng cho vay thêm nhằm bổ sung cho đủ nhu cầu đã định trước, mức cho vay cao nhất bằng số dư tiền gửi tiết kiệm..
- Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, có hai loại:.
- Một là: tiền gửi tiết kiệm được hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn..
- Hai là: tiền gửi tiết kiệm có lãi và có thưởng (bằng tiền, vàng hoặc hiện vật thông qua xổ số theo định kỳ)..
- có tiền mặt để giải quyết các nhu cầu cấp bách.
- có thừa tiền mặt.
- Hàng hóa bán ra của các NHTM chính là những chứng khoán mà NHTM đã mua vào để dự trữ và kinh doanh như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, không phải là những giấy vay nợ của ngân hàng như chứng chỉ tiền gửi (CDs) hay giấy nhận nợ của ngân hàng (BAs)..
- Đây là cách giải quyết vấn đề tạm thời thiếu hụt tiền mặt của NHTM, số tiền này là một khoản vay ngắn hạn của ngân hàng, người mua chứng khoán là người cho vay, là chủ nợ của ngân hàng đi vay bằng RPs trên thị trường tiền tệ..
- Tiền gửi trong các quỹ tín dụng trên thị trường tiền tệ (Money market fund deposits).
- Tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (Money market deposits accounts).
- Loại tài khoản này có thời hạn dài hơn loại tiền gửi trong các quỹ tín dụng trên thị trường tiền tệ..
- Giấy nhận nợ của chủ tài khoản có thể được dùng để mua bán thanh toán trên thị trường tiền tệ, lãi suất tương đương với lãi suất tiền gửi của các quỹ tín dụng trên thị trường tiền tệ..
- Trái phiếu dollar châu Âu là một loại giấy nhận nợ do các NHTM phát hành để vay vốn ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi CDs.
- Khối tiền tệ M3.
- Những loại tiền gửi lớn có kỳ hạn (large denomination time deposits).
- Trên thị trường tiền tệ, loại tiền gửi này có tên là Jumpo CDs (Jumpo certificates of deposits)..
- Điểm khác nhau cơ bản giữa loại tiền gửi lớn có kỳ hạn và loại tiền gửi nhỏ có kỳ hạn là: Khi chưa đến hạn, các khoản tiền gửi nhỏ có kỳ hạn không được rút tiền mặt ra, còn các khoản tiền gửi lớn có kỳ hạn khi chưa đến hạn được chuyển thành tiền mặt dễ dàng không bị phạt, nhưng phải là những khoản thật lớn (ở Mỹ ít nhất là từ 100.000 USD trở lên)..
- Họ dùng nó để thanh toán tiền hàng trong sản xuất, buôn bán, kinh doanh trên thị trường tiền tệ..
- Trái phiếu (hay tín phiếu) được mua lại của các ngân hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm, quỹ tiết kiệm: loại tiền này giống như REPO, có tên gọi là Terms RPs (Terms repurchase agreement at commercial bank hay savings bank, loan associations), nhưng có điểm khác nhau cơ bản ở chỗ, chúng là trái phiếu dài hạn với thời gian tối thiểu phải một tuần lễ trở lên đến hàng năm, giá trị tiền gửi khá lớn, lãi suất cao..
- Khối tiền tệ L.
- Khối tiền tệ L này bao gồm:.
- Khối tiền tệ của nền kinh tế với những thành phần của nó biến động tùy theo tình hình kinh tế tài chính, và sự hoạt động hữu hiệu của hệ thống Ngân hàng..
- Các loại tiền trong hệ thống tiền tệ hiện nay, thứ tự theo mức thanh khoản (Liquidity)..
- Bảng tổng hợp khối lượng tiền cung ứng của nền kinh tế sau đây, đã giúp ta tống quát hóa được toàn thể khối tiền tệ cung cấp cho nền kinh tế trong một thời kỳ xác định..
- M1 - Tiền mặt.
- Tiền gởi không kỳ hạn (còn được gọi là tiền gửi trong tài khoản Séc).
- Tiền gởi tiết kiệm - Tiền gửi có kỳ hạn ngắn - Tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ.
- Tiền gửi trong các quỹ tín dụng trên thị trường tiền tệ - Tài khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ.
- Tiền gửi có kỳ hạn loại lớn.
- Sơ đồ 3.1: Mô hình khối tiền tệ M1: Tiền mặt.
- lưu hành + Tiền gửi không kỳ hạn.
- M2: Tiền mặt lưu hành + Tiền gửi không kỳ hạn.
- Các khoản tiền gửi có kỳ hạn + Chứng chỉ tiền gửi + Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ.
- M3: Tiền mặt lưu hành + Tiền gửi không kỳ hạn.
- Các khoản tiền gửi có kỳ hạn + Chứng chỉ tiền gửi (Giấy chứng nhận tiền gửi.
- Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ.
- Tiền gửi lớn có kỳ hạn và trái phiếu L: Tiền mặt lưu.
- hành + Tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi lớn có kỳ hạn và trái phiếu.
- Cầu tiền tệ.
- Cầu tiền tệ là tổng khối tiền tệ mà Nhà nước, các tổ chức kinh tế và cá nhân cần có để thỏa mãn các nhu cầu..
- Nhu cầu tiền tệ không trực tiếp quyết định mức tiền tệ cung ứng, bởi vì mức tiền tệ cung ứng nhiều hay ít phụ thuộc vào quyết định của Ngân hàng Trung ương, mà nó chỉ có tác động gián tiếp đến mức cung tiền thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, lãi suất....
- Chú ý rằng, trong các chức năng của tiền tệ có những chức năng có liên quan trực tiếp đến nhu cầu tiền tệ.
- Một số học thuyết về nhu cầu tiền tệ.
- Nhu cầu tiền tệ được xác định dựa trên một số học thuyết khác nhau:.
- Phái duy danh cho rằng tiền tệ chỉ là công cụ kỳ thuật thuận tiện cho trao đổi hàng hóa dịch vụ, bản thân tiền tệ không cần có giá trị nội tại, và nhà nước hoàn toàn có thể phát hành tiền giấy đi những giá trị quy ước, là có thể phục vụ cho trao đổi hàng hóa dịch vụ.
- Cầu tiền tệ tăng giảm biến động thuận chiều với tổng giá cả hàng hóa dịch vụ, tức là biến động tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế, và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ (tức là số vòng luân chuyển trong một năm của mức cung tiền giao dịch)..
- Irving Fisher đưa ra Thuyết “Mãi lực Tiền tệ” (sức mua của tiền tệ) cho rằng: tiền tệ phụ thuộc vào sức mua tổng quát của nó, tiền tệ là vật trung gian trao đổi và nó phải có giá trị, bởi vì một đơn vị tiền tệ đổi được nhiều hàng hóa dịch vụ.
- Người ta dựa vào giá bán của hàng hóa để biết sức mua của tiền tệ.
- Năm 1991 ông đã đưa ra thuyết số lượng tiền tệ, và đề xuất phương án giao dịch về số lượng tiền tệ với phương trình nổi tiếng..
- Khối tiền tệ lưu hành có thể tăng thêm hoặc giảm bớt là do chính sách phát hành của NHTW và chính sách cấp tín dụng của NHTM..
- Học thuyết tiền tệ của trường phái Cambridge (Còn gọi là phương án Cambridgo - phương án số dư tiền mặt) Số dư tiền mặt phụ thuộc vào các nhân tố:.
- Các nhu cầu dự trữ tiền tệ để bảo hiểm, dự phòng..
- M: là cầu tiền tệ (số lượng đơn vị tiền tệ yêu cầu).
- K: là hệ số nhu cầu tiền tệ (nhu cầu tiền tệ cần nắm giữ trong tài sản của họ) R: giá trị của tổng tài sản của công chúng..
- Nội dung của lý luận này là nhu cầu về tiền mặt gồm hai bộ phận:.
- Bộ phận thứ nhất là nhu cầu tiền mặt cho giao dịch.
- Lượng cầu tiền mặt này là hàm số thuận của thu nhập.
- Vì thế nhu cầu tiền mặt của họ cũng nhiều hơn..
- Bộ phận thứ hai là nhu cầu tiền mặt cho mục đích đầu cơ.
- Lượng cầu tiền mặt thứ hai này là hàm số nghịch của lãi suất.
- Lãi suất càng hấp dẫn thì người ta càng ít giữ tiền mặt.
- Lãi suất kém hấp dẫn thì có xu hướng giữ tiền mặt nhiều hơn.
- Giữ tiền mặt thì có mặt lợi là tính thanh khoản cao.
- Những người lạc quan thì dự tính giá chứng khoán lên (lãi suất giảm) sẽ từ bỏ tiền mặt và mua chứng khoán.
- Như vậy cầu tiền tệ phụ thuộc vào ba nhân tố..
- Theo quan điểm của Milton Friedman (nhà kinh tế Mỹ trường phái Chicago) Ông cho rằng tổng cầu tiền tệ phụ thuộc vào bốn nhân tố:.
- Ông khẳng định thu nhập thực tế là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và thuận chiều với nhu cầu tiền tệ.