« Home « Kết quả tìm kiếm

NHỮNG YẾU TỐ VĂN HOÁ CỔ SƠ TRONG HIỆN TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG TÌM VỢ NƠI XA, SỰ LỰA CHỌN HƯỚNG DI CHUYỂN CỦA NHÂN VẬT VÀ BẢN CHẤT CUỘC THI TÀI GIÀNH NGƯỜI ĐẸP TRONG SỬ THI BANA


Tóm tắt Xem thử

- Thuật ngữ sử thi ở Việt Nam được sử dụng tương đương với epos trong tiếng Hy Lạp, epic trong tiếng Anh, épopée trong tiếng Pháp.
- Theo Từ điển tiếng Việt, sử thi được định nghĩa: “1) Tác phẩm lớn thuộc loại văn tự sự miêu tả sự nghiệp của những người anh hùng và các sự kiện lịch sử lớn.
- Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ sử thi với nghĩa một thể loại văn học cụ thể..
- Do xuất hiện sớm trong lịch sử, nội dung hướng đến việc phản ánh những sự kiện quan trọng của cộng đồng buổi sơ khai và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, môi trường lý tưởng cho sự ra đời và phát triển của sử thi là xã hội tiền giai cấp thời kỳ cuối, khi con người bước ra khỏi cái nôi đầu tiên - thiết chế công xã nguyên thuỷ - để tiến vào ngưỡng cửa của thời đại văn minh.
- Iliade, Odyssèe, Mahabharata, Ramayana - “những hình thức cổ điển lẫy lừng của sử thi”, theo cách nói của G.
- Hegel – xuất hiện vào thời kỳ này, thời kỳ lịch sử chuyển mình từ xã hội dã man sang xã hội có giai cấp, có nhà nước, thông qua những cuộc chiến tranh khốc liệt nhằm thống nhất các bộ lạc và liên minh bộ lạc thành quốc gia..
- Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có một số sử thi được hình thành trước khi nhà nước ra đời.
- Những cuộc chiến trong các sử thi này phản ánh quá trình đấu tranh giữa các thị tộc, bộ lạc, tiến tới hình thành liên minh bộ lạc..
- Với tiêu chí có hay không sự hình thành nhà nước, sử thi được phân biệt thành hai loại: sử thi cổ sơ (archaic epic) xuất hiện trước khi có quốc gia còn sử thi cổ đại (antique epic) hay sử thi cổ điển (classical epic), thì xuất hiện sau khi có quốc gia..
- Meletinski viết: “Sự cố kết thành nhà nước của các bộ tộc là một nhân tố quyết định sự phát triển của sử thi.
- Chính yếu tố nhà nước này, trong tuyệt đại đa số các tác phẩm, quy định sự khác nhau giữa sử thi cổ sơ và sử thi cổ điển” [7, 342]..
- Về đề tài, sử thi cổ sơ thường xoay quanh câu chuyện người anh hùng chiến đấu nhằm báo thù cho người thân, giành giật người phụ nữ đẹp hoặc một vật thiêng… Sử thi cổ sơ mang nhiều dấu ấn của chất liệu thần thoại, trong đó đối thủ của nhân vật chính thường là những quái vật dị thường - hình tượng khái quát hoá những thử thách trên con đường thị tộc, bộ lạc chinh phục tự nhiên..
- Sử thi cổ đại thì ra đời khi nền công xã nguyên thuỷ đã có những chuyển biến mạnh mẽ cuối cùng để bước sang thời kỳ có nhà nước, và phản ánh những vấn đề mang tầm vóc và tính chất quốc gia.
- Kẻ thù của người anh hùng trong sử thi cổ điển mất dần tính hoang đường và không còn nằm trong mối quan hệ cá nhân hay là đối thủ của một cộng đồng bé nhỏ vô danh nữa, mà nhìn chung đã trở thành hiện thân của những lực lượng lịch sử [3, 425].
- Cũng có ý kiến cho rằng, bước vào giai đoạn hình thành quốc gia, một số sử thi mới được hình thành trên cơ sở tái tạo các sử thi cũ, và do vậy đối thủ cũng như nhiệm vụ của người anh hùng trong các tác phẩm đã có sự biến đổi tương ứng với cơ sở xã hội mới..
- Nhận định khái quát về hình thức biểu hiện của sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại, Meletinski cho rằng, nếu những tác phẩm sử thi cổ sơ ít nhiều còn mang lớp vỏ thần thoại, cổ tích thì trong tác phẩm sử thi cổ đại, những hồi ức lịch sử của nhân dân đã được thể hiện dưới hình thức thích hợp hơn qua việc miêu tả các nhân vật và sự kiện lịch sử..
- Sử thi Tây Nguyên là sử thi cổ sơ.
- Chế độ công xã thị tộc, nói một cách chính xác, mới chỉ kết thúc trên mảnh đất này vài chục năm trước, và mục đích sâu xa của những cuộc chiến được miêu tả trong các tác phẩm cũng chỉ dừng lại ở việc kết hợp những buôn làng - vốn phân tán - thành liên minh bộ lạc.
- Chúng ta vẫn có thể thấy trong sử thi Tây Nguyên những dấu ấn của thần thoại hoặc cổ tích như sự giải thích nguồn gốc vũ trụ và con người.
- Đặc biệt, hình ảnh “kẻ thù” của bộ lạc là một biểu tượng tự nhiên hoặc có nguồn gốc thú cũng rất phổ biến (thần núi đá Tơ mo Lôkcông, hổ tinh, quỷ ác đội lốt cọp Adrang Hạ - Adrang Hơm.
- Về nhiệm vụ của người anh hùng, báo thù và đòi lại vật báu là những điều khá quen thuộc.
- Bra Đam, Đăm Thí, Chi Lơ Kok… luôn ghi nhớ bổn phận “trả thù cho cha, đòi xương cho mẹ”, còn trong Otnrong Mnông, nhân vật thường chiến đấu để đòi lại vật báu của thủ lĩnh (bễ thổi lửa, ché, đàn nring hay bộ cồng chiêng)… Những tình tiết trên rất đặc trưng cho sử thi cổ sơ..
- Từ năm 2001 đến 2007, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên thực hiện Dự án cấp Nhà nước Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên.
- Đây là dự án quy mô nhất về sử thi ở Việt Nam từ trước tới nay.
- Sử thi Bana chiếm tỷ lệ lớn, đứng thứ hai trong tổng số những tác phẩm đã xuất bản của Dự án với ba mươi hơmon được công bố, chiếm hơn một phần ba đơn vị tác phẩm trong bộ sách Kho tàng sử thi Tây Nguyên.
- Chưa kể một số sử thi Bana đã được ra mắt trước đây nhiều năm như Giông nghèo tám vợ, Tre vắt ghen ghét Giông, Đăm Noi… và số khác thuộc Dự án chưa được biên tập, chỉ riêng khối lượng tư liệu văn học phong phú nói trên đã và đang gợi ra rất nhiều vấn đề chờ được giải đáp..
- Như mọi tác phẩm folklore khác, sử thi - với đặc trưng nguyên hợp - là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có văn học, văn hoá học, dân tộc học, xã hội học… Trên cơ sở khảo sát các sử thi Bana mới xuất bản, chúng tôi nhận thấy một số lượng lớn tác phẩm có chứa đựng những yếu tố bất biến liên quan đến chủ đề hôn nhân.
- Về hiện tượng người anh hùng tìm vợ tại vùng đất khác.
- Hầu như sử thi Bana nào cũng nói tới việc người anh hùng tiến hành cuộc phiêu lưu đến một miền đất xa lạ nào đó mà có rất ít, hoặc không hề có mối liên hệ với vùng đất của anh ta.
- Trong Cành vàng - Bách khoa thư về văn hoá nguyên thuỷ [2], nhà nhân loại học và folklore học James George Frazer có nhắc đến ba nguyên tắc chủ yếu của hôn nhân thời kỳ mẫu hệ, gồm chế độ ngoại hôn, lễ cưới beena và họ con cái tính theo dòng mẹ.
- Điều này gợi mở cho chúng tôi suy nghĩ rằng tình tiết các nhân vật trong sử thi Tây Nguyên tìm vợ nơi xa có thể có mối liên quan nào đó với chế độ ngoại hôn..
- Có điều đáng lưu ý, khác với các tộc người lân cận, người Bana thời đại sử thi không còn ở trong thiết chế mẫu hệ thuần tuý nữa.
- Tư liệu dân tộc học cho biết, vào thời điểm nói trên, các dân tộc Tây Nguyên nhìn chung đang ở giai đoạn cuối của chế độ mẫu hệ, song mặc dầu thiết chế này về cơ bản vẫn còn có hiệu lực, nhưng nó đã bắt đầu có những rạn nứt ở một số dân tộc, và những mầm mống đầu tiên của hình thái hôn nhân - gia đình kiểu mới đã xuất hiện.
- Liệu chế độ ngoại hôn có còn là giả thuyết thích hợp cho việc người anh hùng Bana tìm vợ nơi xa?.
- vẫn theo chế độ mẫu hệ thì thiết chế hôn nhân - gia đình của người Bana, Sêđăng… (thuộc phân ngành Banaric bắc) đã phần nào chuyển sang tính chất song hệ.
- Điều này được thể hiện qua việc nam nữ cùng có quyền chủ động trong hôn nhân, ngoại hôn dòng họ không tuyệt đối, cư trú sau hôn nhân là cư trú luân phiên, quyền thừa kế không phụ thuộc vào giới tính của người con… Như vậy, nguyên tắc ngoại hôn vẫn được duy trì, nhưng không triệt để.
- Theo các tác giả Người Bana ở Việt Nam, hôn nhân của tộc người này mang tính chất nội hôn dân tộc và ngoại hôn dòng họ.
- Người Bana quan niệm, vi phạm điều này là mắc tội làm ô uế đất và nước, và thần linh sẽ giáng các tai hoạ xuống đầu con người như hoả hoạn, dịch bệnh, chiến tranh, mất mùa… Kẻ loạn luân bị dân làng đưa ra xét xử và theo luật tục phải nộp phạt một số ghè rượu cùng vật hiến sinh (3 con trâu, 3 con dê, 3 con gà).
- Họ phải sống lang thang trong rừng và sẽ không được bất cứ một cộng đồng nào khác tiếp nhận..
- Đây chính là thiết chế hôn nhân đời thứ tư mà Friedrich Engels đề cập tới trong Nguồn gốc của gia đình, của nhà nước và của xã hội [1].
- Morgan, gia đình người Bana thiên về loại gia đình huyết tộc, mà hệ thống tương ứng là Mã Lai [6, 115]..
- Tính chất không triệt để của chế độ ngoại hôn dòng họ ở người Bana bắt nguồn từ những lý do nhất định.
- Người Bana xưa chỉ sống trong một môi trường biệt lập là làng.
- Điều này soi sáng phần nào tình tiết mà sử thi Bana vẫn miêu tả - người anh hùng tới một vùng đất xa xôi, cưới cô gái thuộc một cộng đồng khác.
- Các cuộc hôn nhân trong sử thi Bana chắc chắn đã vượt ra khỏi phạm vi tơring, bởi nơi mà nhân vật chính tìm đến thường khá xa làng của anh ta, phải đi qua nhiều miền đất, cánh rừng, núi non và sông suối, thậm chí cả “biển lớn” với những quái vật hung dữ… Đằng sau những hình ảnh mang tính cường điệu, kỳ vĩ hoá của lối miêu tả sử thi, chúng ta thấy được những hạt nhân hợp lý.
- Địa điểm cư trú của người Bana rải rác trên không gian rộng gần một vạn cây số vuông, bao gồm phần lớn khu vực phía đông của hai tỉnh Kon Tum, Gia Lai và một phần miền núi phía tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên ngày nay, khoảng cách từ vùng này đến vùng kia là không hề nhỏ và điều này đã được nghệ thuật hoá trong các hơmon..
- Với quy tắc ngoại hôn có sự linh động nhất định (không cấm kết hôn trong họ từ đời thứ tư trở đi), người anh hùng của sử thi Bana có thể không cần phải tìm vợ nơi xa, nhưng trong các tác phẩm, anh ta vẫn luôn ra đi.
- Tại sao? Nếu nhìn từ góc độ loại hình học, có thể coi hành động đó thuộc về chức năng của nhân vật, nhưng nhìn từ góc độ văn hoá - dân tộc học, điều này phải được lý giải trên cơ sở lịch sử - xã hội, nhất là đối với sử thi - một thể loại văn học hướng đến việc tái hiện chi tiết đời sống thực tế..
- Như đã đề cập ở trên, với quy mô chỉ vài chục gia đình, làng của người Bana không phải lúc nào cũng đủ người để đảm bảo chế độ ngoại hôn dòng họ.
- Có lẽ vì vậy, việc lấy vợ cùng một dòng họ - dù họ xa - không phải là giải pháp nằm trong sự lựa chọn của người anh hùng, con người được coi là biểu tượng của cộng đồng (cả về ý thức tuân thủ luật tục).
- Nhiều khả năng đó là lý do khiến người anh hùng - nhân vật lý tưởng của sử thi - thường lên đường tìm kiếm bạn đời ở những miền đất khác..
- Từ những gì đã trình bày ở trên, chúng tôi cho rằng môtíp người anh hùng rời bộ lạc tìm vợ trong sử thi Bana có một phần nguyên nhân xuất phát từ ý muốn thực hiện ngoại hôn tuyệt đối, mà trong bối cảnh làng của người Bana về cơ bản không có đủ điều kiện để thực hiện việc đó.
- Qua khảo sát các tác phẩm sử thi Bana đã xuất bản, chúng tôi nhận thấy hành trình tìm vợ của người anh hùng chỉ diễn ra theo một hướng duy nhất, từ vùng đầu nguồn xuống vùng cuối nguồn.
- Vùng đầu nguồn và vùng cuối nguồn, hay vùng cao và vùng thấp, được người Bana xác định căn cứ vào độ cao so với mặt biển.
- Địa bàn người Bana cư trú được chia thành hai vùng khác biệt, lấy núi Mang Yang làm phân giới.
- Người Bana trên núi Mang Yang gọi người dưới núi là Bana ala kôông (có nghĩa là người Bana dưới núi)..
- Ngược lại, người Bana ở dưới núi Mang Yang gọi người Bana ở trên núi là Bana kpâng kôông (người Bana trên núi).
- Tuy nhiên, đây chỉ là sự phân biệt dựa trên địa vực cư trú, ala kôông và kpâng kôông không phải là những nhóm địa phương của người Bana.
- Ý thức chung về cộng đồng dân tộc của cả hai vùng là thống nhất.
- Trong mọi trường hợp rời làng đi tìm vợ, hướng di chuyển cố định của người anh hùng trong sử thi là tới vùng cuối nguồn, tức là phía đông.
- là yếu tố quen thuộc trong tâm thức của người Bana..
- Người Bana có quan niệm như thế nào về hướng đông và hướng tây? Theo nhiều nghiên cứu, trong tín ngưỡng của tộc người này, hướng đông, hướng mặt trời mọc (gah nar léch) nhìn chung được coi là hướng tốt, hướng của sự sống, còn hướng tây, hướng mặt trời lặn (gah nar hoang) là hướng xấu, hướng của cái chết..
- Người Bana còn lưu giữ nhiều huyền thoại thể hiện quan niệm trên của họ..
- Quan niệm của người Bana về hướng đông, hướng tây là một tín ngưỡng rất cổ, trùng khớp với ghi nhận của nhà dân tộc học nổi tiếng thế kỷ XIX Edward B.
- Qua những dẫn chứng vừa phân tích, giả thuyết đặt ra ở trên - hướng di chuyển tìm vợ của người anh hùng nằm trong mối liên hệ với tín ngưỡng cổ xưa - đã cho thấy những yếu tố hợp lý.
- Có thể nhận định, hành trình tới vùng cuối nguồn của nhân vật xuất phát từ tâm thức hướng về phía mặt trời mọc của người Bana.
- Trong nhiều trường hợp, hành trình tìm vợ của người anh hùng kết thúc bởi chiến thắng mà anh ta đạt được trong cuộc thi tài giành người đẹp ở một làng nào đó.
- Hình thức thi tài xuất hiện trong một số tác phẩm sử thi Bana như Giông ngủ ở nhà rông của làng bỏ hoang [4], Giông làm nhà mồ [5]… Cuộc thi được đặt ra để tìm người xứng đáng kết hôn với con gái vị chủ làng hoặc chính bản thân nữ tù trưởng, nhưng mục đích thực sự ẩn sau sự kiện này là gì?.
- Trong thiết chế mẫu hệ, để bộ lạc ngày một vững mạnh, những nữ thủ lĩnh cần phải tìm người bạn đời có đầy đủ phẩm chất về thể lực và tinh thần, có khả năng tạo ra giống nòi khoẻ mạnh và quan trọng hơn là đủ sức bảo vệ thị tộc bên vợ.
- Dấu vết tập tục này cũng tồn tại cho đến ngày nay trong một số tập quán của người Kirghiz hay người Koryaks vùng đông bắc châu Á.
- Theo Frazer, căn rễ của những tàn dư lịch sử trên, cũng như của thời nguyên thuỷ, bắt nguồn từ đòi hỏi của cộng đồng về một người thủ lĩnh có những phẩm chất và giá.
- Trở lại với sử thi Bana, ta có thể thấy việc đàn ông có mục đích giành vị trí thủ lĩnh thị tộc (hay bộ lạc) của người nữ thông qua hôn nhân mờ nhạt, thậm chí vắng bóng trong sử thi, bởi sau chiến thắng, người anh hùng thường đưa vợ về buôn làng mình sinh sống.
- Vậy phải chăng mục tiêu của người mở cuộc thi tài chỉ thuần tuý là nhằm tìm kiếm người con rể/ người chồng đủ tiêu chuẩn, còn về phía người tham dự đơn giản chỉ là để giành người con gái đẹp? Hay nói cách khác, trong sử thi Bana, vai trò “phần thưởng” của người con gái không bao hàm cả thị tộc, bộ lạc mà cô đại diện? Đây chính là một vấn đề cần tìm hiểu..
- Các sử thi Bana cho thấy, thành viên buôn làng nơi người con gái sinh sống rất quan tâm đến việc ai là người chiến thắng trong cuộc đua tài.
- Điều đó nói lên rằng, sự kiện này không chỉ có ý nghĩa với riêng gia đình cô gái mà còn có ý nghĩa với cả cộng đồng của cô.
- Trong mọi trường hợp, chiến thắng của Đăm Giông luôn đem lại niềm vui mừng lớn đối với cộng đồng đó.
- Vì sao? Qua lời thoại, có thể thấy thái độ của họ không chỉ xuất phát từ sự hài lòng về bản thân chàng trai mà còn từ sự ưng ý về gia đình và xứ sở của anh ta, bởi Giông là con một tù trưởng có uy tín, buôn làng của chàng nổi tiếng giàu mạnh, đã từ lâu là miền đất mơ ước trong suy nghĩ của người Bana.
- Như vậy, sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng này đến gia thế, xứ sở… của người thắng cuộc - những yếu tố nằm ngoài bản thân anh ta - đã cho thấy vấn đề không chỉ/ không phải là chuyện tìm đối tượng kết hôn cho con gái chủ làng..
- Nói cách khác, cuộc thi là hình thức lựa chọn liên minh dựa trên quan niệm người chiến thắng nhất định là người thuộc về một bộ lạc hùng mạnh nào đó.
- Hôn nhân giữa đôi trai gái - mà mỗi người đều được coi là người đại diện cho cộng đồng của mình (vì họ thường là con của thủ lĩnh.
- sẽ là cơ sở cho sự liên minh giữa hai bộ lạc.
- Phải chăng, đó mới là mục đích thực sự của hình thức thi tài kén chồng trong sử thi Bana?.
- Khi tin rằng kẻ thắng trong cuộc thi tài chắc chắn phải xuất thân từ một bộ lạc hùng mạnh, người Bana không phải không căn cứ trên những cơ sở hợp lý nhất định.
- Trong quan niệm xưa, người anh hùng là biểu tượng kết tinh sức mạnh của cả cộng đồng.
- Diễn đạt khác đi, người anh hùng và toàn bộ lạc là một.
- “Thời đại anh hùng, cá nhân anh hùng được phản ánh trong sử thi không nhằm mục đích mang lại vinh quang cho cá nhân” (G.
- Ở thời kỳ mà “mỗi cá nhân đứng riêng ra tự nó không có ý nghĩa gì cả, toàn công xã được đánh dấu bởi sự nhất trí chặt chẽ của tập thể, sự gắn kết các nguyện vọng và mục đích sống của mỗi con người”, như cách nói của Engels, thì sự xuất hiện của người anh hùng không thể là điều gì đó lạc lõng, đột biến.
- Vì vậy, nếu kẻ thắng cuộc là người xuất chúng - và dĩ nhiên là như thế - thì cộng đồng mà anh ta đại diện sẽ là một cộng.
- Achille phải thuộc về bộ lạc Myrmidons hùng mạnh, cũng như Hector chỉ có thể là người của thành Troie danh tiếng.
- Không phải ngẫu nhiên mà làng của người chiến thắng trong mọi cuộc thi tài - Đăm Giông - luôn được sử thi miêu tả như là một trong những bộ lạc mạnh nhất của người Bana, bởi chỉ những cộng đồng như vậy mới có thể sinh ra và rèn luyện nên những con người có năng lực vượt trội..
- Như trên đã nói, những cuộc thi tài trong sử thi Bana, khác với tập quán nguyên thuỷ trên thế giới và ở Việt Nam, được đặt ra không phải để tìm kiếm một người đủ khả năng cầm đầu thị tộc (hay bộ lạc) của người con gái, mà là để lựa chọn đối tượng liên minh (điều này có mối liên hệ với thiết chế song hệ - cư trú không hoàn toàn bên vợ).
- Hơn thế, việc người anh hùng thể hiện được năng lực xuất chúng của mình qua sự kiện giành thắng lợi trong cuộc thi tài và mang “vật chứng” trở về còn khiến cộng đồng của chàng thừa nhận chàng có đủ điều kiện trở thành thủ lĩnh tương lai (cần lưu ý, chức chủ làng của người Bana không phải mang tính chất cha truyền con nối mà do dân cử).
- Như vậy, phần thưởng mà bản thân người con trai nhận được bao gồm: Cô gái đẹp + Quyền đứng đầu bộ lạc của chính anh ta.
- Tương tự như bên nữ, mong muốn tìm kiếm liên minh cũng là một trong những nguyện vọng của các trai tráng tham dự cuộc thi, bởi họ đều là người đại diện cho buôn làng của mình, tức đại diện cho ý chí của một cộng đồng.
- Trong bối cảnh xung đột quân sự diễn ra liên miên giữa các buôn làng Bana thời đại sử thi, một liên minh trong tương lai với một bộ lạc giàu mạnh chính là phần thưởng không kém phần quan trọng..
- Điều này cho phép chúng ta phỏng đoán, những sử thi nói đến một trong những mục đích của hôn nhân là nhằm liên kết, mở rộng cộng đồng có thể ra đời muộn hơn những sử thi khác trong hệ thống hơmon của người Bana..
- Sự thúc đẩy của thiết chế ngoại hôn trong việc tìm vợ nơi xa, tín ngưỡng nguyên thuỷ trong hướng di chuyển và mục đích lựa chọn đối tượng liên minh thông qua các cuộc thi tài là những giải thích bước đầu của chúng tôi về một số yếu tố cổ sơ liên quan đến chủ đề tìm vợ trong sử thi Bana.
- Việc ứng dụng các tri thức liên ngành trong nghiên cứu sử thi Bana hứa hẹn sẽ giúp chúng ta “đọc” được nhiều hơn nữa những tầng ý nghĩa của các tác phẩm cổ xưa này..
- Trần Hồng Thu - Bùi Bích Lan, Người Bana ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006..
- Meletinsky, Nguồn gốc sử thi anh hùng, NXB Văn học Phương Đông, Moskva, 1963