« Home « Kết quả tìm kiếm

NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM SAU HAI NĂM VÀO WTO (2007 - 2008)


Tóm tắt Xem thử

- NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM SAU HAI NĂM VÀO WTO .
- Sự kiện quan trọng này vừa là cơ hội, thời cơ lại vừa là thách thức đối với kinh tế Việt Nam nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới.
- Những yếu tố ảnh hưởng của gia nhập WTO đối với nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
- Đối với một nước kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 72,86% dân số sống ở nông thôn, gần 70% lao động làm nông nghiệp.
- 20,4% GDP do nông nghiệp tạo ra và 30%.
- kim ngạch xuất khẩu có nguồn gốc từ nông lâm nghiệp và thuỷ sản (2006), thì tác động của WTO vào khu vực nông nghiệp, nông thôn càng rõ nét.
- Về lợi thế : Vào thời điểm gia nhập WTO nông nghiệp, nông thôn Việt Namcó nhiều lợi thế.
- Sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chính sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường thế giới và khu vực dựa trên cơ sở đơn vị sản xuất là kinh tế nông hộ ở khu vực nông thôn đã đạt được những thành tựu mới..
- Nông nghiệp Việt Nam (theo nghĩa rộng gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản) đã có nhiều thay đổi so với trước.
- Từ một nền nông nghiệp độc canh, tự cung tự cấp lương thực là chủ yếu trước đổi mới, đã từng bước chuyển thành nền nông nghiệp đa canh, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Trước ngưỡng cửa của WTO, nông nghiệp Việt Nam đã bước đầu mang dáng dấp của một nền nông nghiệp hàng hoá có những nét hiện đại đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thị trường trong nước với nhu cầu cao hơn đồng thời dư thừa nông sản, thuỷ sản xuất khẩu..
- Sản phảm nông nghiệp đã đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống dù cho thiên tai nặng nề và biến động bất lợi của thị trường thế giới.
- Chính các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung đó đã cung cấp nông sản hàng hoá và xuất khẩu trong những năm qua và là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hoá lớn đã và đang hình thành, khác hẳn thời kỳ trước đổi mới..
- Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đã chuyển mạnh theo hướng phát triển kinh tế hộ và trang trại phù hợp với yêu cầu giải phóng sức sản xuất, thích ứng với cơ chế thị trường.
- Các trang trại cũng là đơn vị sản xuất nông sản hàng hoá lớn cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu..
- Khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp Việt Nam ngày nay đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu.
- Tỷ lệ đất nông nghiệp được tưới tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với Thái Lan và Philippines..
- Chi phí sản xuất thấp: Nông nghiệp Viêt Nam có ưu điểm là chi phí sản xuất thấp so với các nước khác trong khu vực.
- nhưng chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao động nông nghiệp nói chung thấp.
- Những yếu tố trên đây là tiền đề cơ bản để nông sản đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường, là lợi thế mới, là hành trang không hề kém của nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO..
- Các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam được tự do xâm nhập các thị trường 149 nước thành viên WTO với tư cách bình đẳng mà không phải chịu những.
- Vào WTO sản xuất công nghiệp và dịch vụ khu vực nông thôn sẽ có bước phát triển đột biến.
- Làn sóng đầu tư mới từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và nhất là EU sẽ chảy mạnh vào Việt Nam, trong đó khả năng thu hút vào lĩnh vực nông nghiệp sẽ tăng cao.
- xây dựng nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn.
- Lao động nông nghiệp sẽ chuyển nhanh sang công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ thương mại phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn.
- Một nền nông nghiệp thương phẩm sẽ hình thành và phát triển nhanh cùng với lộ trình gia nhập WTO..
- Các yếu tố để tích tụ ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề của lao động nông thôn sẽ có khả năng tăng lên..
- Bên cạnh lợi thế, thời cơ, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam khi vào WTO vẫn còn nhiều yếu thế và bất cập mới..
- Thứ nhất, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện nay sản xuất ra chủ yếu để tiêu dùng cho người sản xuất, còn sản phẩm hàng hoá chiếm tỷ trọng không lớn, nhất là các sản phẩm lương thực, thực phẩm tiêu dùng cho đời sống như lúa, ngô, khoai, rau đậu các loại, thịt gia súc và gia cầm..
- Thứ hai, đơn vị sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp là hộ gia đình nông dân, có quy mô sản xuất rất bé, sản xuất lại phân tán, công cụ sản xuất nhiều vùng, nhất là vùng núi, vùng sâu vẫn còn lạc hậu.
- các tổ chức dịch vụ nông nghiệp lại chưa hoàn thiện, nên người nông dân vẫn chịu thiệt thòi nhiều mặt.
- Thứ ba, cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa theo kịp yêu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nhưng chuyển dịch rất chậm, không đều và không vững chắc .
- Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn dao động ở mức từ 80,5% đến 81% và có xu hướng tăng dần: tỷ trọng lâm nghiệp giảm dần.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp (nghĩa hẹp) còn mang nặng tính độc canh, tự cấp, tự túc, phân tán, quy mô nhỏ..
- Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành sản xuất chính của nông nghiệp theo nghĩa hẹp.
- Mục tiêu đề ra đến năm 2010, tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 25% giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp.
- Đến nay, cả nước có 1,5 triệu ha đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm 70% tổng diện tích cây lâu năm và 800 nghìn ha cây công nghiệp hàng năm, chiếm 7,7% tổng diện tích cây hàng năm, tạo ra giá trị sản xuất hơn 23,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 25% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt và 20% giá trị sản xuất nông nghiệp..
- Dân số nông thôn tăng nhanh, trung bình mỗi năm dân số tăng thêm trên 1 triệu người càng tăng sức ép cầu lương thực, chủ yếu là lúa gạo, nhu cầu về đất thổ cư do san tách hộ nông nghiệp làm giảm đất lúa.
- nghèo trong nông thôn còn cao, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn rất lớn nên rất khó khăn tìm việc làm mới ngoài nông nghiệp.
- Sự bảo hộ của nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp tuy còn nhưng không lớn và giảm dần, nhất là bảo hộ nông sản xuất khẩu..
- Thách thức đối với nông nghiệp cũng theo đó tăng lên..
- Thực trạng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau gần 2 năm gia nhập WTO .
- Thứ nhất : S ản xuất nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển toàn diện, tăng trưởng khá và chuyển dịch theo hướng hàng hoá .
- Phát huy thành quả của hơn 20 năm đổi mới và tranh thủ các yếu tố và thời cơ thuận lợi do WTO tạo ra, trong gần 2 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã từng bước chuyển thành nền nông nghiệp đa canh, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Sau khi vào WTO, nông nghiệp Việt Nam bước đầu mang dáng dấp của một nền sản xuất hàng hoá có những nét hiện đại đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong nước với nhu cầu cao hơn về chất lượng.
- giá cả phân bón vật tư nông nghiệp tăng cao, nhưng sản xuất nông nghiệp Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, tốc độ tăng trưởng khá cao.
- Sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước 2 năm qua vẫn đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống dù cho cuộc khủng hoảng lương thực thế giới đầu năm 2008 diễn ra gay gắt.
- Chưa bao giờ thị trường và giá cả hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam lại sáng lạn như năm qua.
- Thứ ba: Đổi mới về nhận thức của người sản xuất nông nghiệp (nghĩa rộng).
- Khi vào WTO thị trường Việt Nam, thuế suất nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản, thuỷ sản đã giảm dần theo lộ trình, sự bảo hộ của nhà nước cho nông nghiệp cũng hạn chế theo cam kết WTO.
- Do có phân bón và nông sản ngoại nhập nên sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên sân nhà.
- Tư duy sản xuất nông nghiệp sạch, chất lượng cao, chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh trên thị trường đã bước đầu thay thế tư duy năng suất cao, sản lượng nhiều bằng mọi giá của các năm trước.
- Thứ tư: Vai trò của nhà nước đối với nông nghiệp được tăng cường phù hợp với cam kết WTO .
- Hàng loạt cơ chế, chính sách của nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam kết WTO.
- Đó là chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ cao vùng ven thành phố lớn..
- Thứ năm: Sau khi vào WTO, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong ngành nông nghiệp (nghĩa rộng) theo hướng chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chính sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường thế giới và khu vực diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn.
- Sự chuyển đổi này đã tạo tiền đề và điều kiện để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hoá gắn với thị trường chặt chẽ hơn.
- Cơ chế kinh tế dựa trên cơ sở đơn vị sản xuất nông nghiệp là kinh tế nông hộ, trang trại tư nhân và HTXNN.
- Khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp Viêt Nam ngày nay đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu.
- Thứ sáu: kinh tế - xã hội nông thôn đổi mới.
- Kết cấu hạ tầng nông thôn tiếp tục được xây dựng mới và nâng cấp..
- Phát triển nhanh mạng lưới điện ở nông thôn.
- Đường giao thông nông thôn được xây dựng và nâng cấp cả về số lượng và chất lượng..
- Khu vực nông thôn có 3964 trạm y tế xã, chiếm 44%, đã được xây dựng kiên cố..
- Môi trường ở nông thôn ngày càng được cải thiện..
- Đến năm 2007, khu vực nông thôn có 7757 xã, chiếm 85,5% số xã có điểm bưu điện văn hoá (năm 2001 là 71,9.
- Ngoài ra khu vực nông thôn còn có 2022 xã, chiếm 22,3%, có trạm bưu điện xã.
- Đến năm 2006, khu vực nông thôn có 702 xã (chiếm 7,7%) có làng nghề, với 1077 làng nghề (năm 2001 có 710 làng nghề), số làng nghề truyền thống là 951 làng (chiếm tỷ lệ 88,3.
- Trong năm 2007, khu vực nông thôn có 180,4 nghìn hộ, chiếm tỷ lệ 1,31%.
- Đến năm 2007, khu vực nông thôn đã có 12,17 triệu người (chiếm tỷ lệ 20,8%) và 1294,3 nghìn hộ (chiếm tỷ lệ 9,4%) được cấp miễn phí bảo hiểm y tế.
- Cơ cấu ngành nghề của lao động chuyển dịch nhanh hơn so với cơ cấu ngành nghề của hộ và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn được nâng lên..
- Sự chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn nhanh hơn so với cơ cấu ngành nghề của hộ.
- Tỷ lệ số người trong tuổi lao động có khả năng lao động phân theo hoạt động chính trong 2007 là: lao động nông nghiệp chiếm 65,5%.
- Xu hướng hoạt động đa dạng ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày càng tăng.
- Số người trong độ tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp trong 12 tháng qua: lao động chuyên nông nghiệp chiếm 56,3%, lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm 29,4% và lao động phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm 14,3%.
- Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo nghề miễn phí, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn đã nâng lên.
- Hộ nông dân tích cực đầu tư phát triển sản xuất để tăng thu nhập, tăng tích luỹ góp phần xoá đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn..
- Năm 2007, thu nhập bình quân 1 hộ nông thôn đạt 2175,8 nghìn đồng, tăng 938,3 nghìn đồng (+43,1%) so với năm 2002.
- Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn là 18% giảm 3,2% so năm 2004.
- Thu nhập của hộ nông thôn tăng, nên vốn tích luỹ trong dân tăng khá.
- Điều kiện sinh hoạt của hộ nông thôn ngày càng được cải thiện..
- Nhà ở khu vực nông thôn được cải thiện cả về loại nhà và diện tích để ở.
- Mức trang bị đồ dùng lâu bền của hộ nông thôn tăng nhiều so năm 2001.
- Tóm lại: Trong những năm qua nông thôn Việt Nam thực sự có những đổi mới mang tính toàn diện.
- Thứ nhất: Đầu tư cho nông nghiệp nông thôn còn thấp so với quy định của WTO (10% giá trị nông nghiêp).
- thấp hơn 10% giá trị nông nghiệp.
- Vốn ODA dành cho nông nghiệp lại càng thấp.
- Do đó, hậu quả là kết cấu hạ tầng nông thôn và cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp còn rất hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá chất lượng cao, giá thành hạ.
- Cơ cấu đầu tư không hợp lý, tỷ trọng đầu tư cho khoa học công nghệ trong nông nghiệp mới đạt 0,13% GDP khu vực này, trong khi các nước khác là 4%.
- Thứ hai: Cơ sở hạ tầng nông thôn các vùng sâu, vùng xa, miền núi, trình độ cán bộ xã, thôn chưa theo kịp yêu cầu sản xuất hàng hoá trong thời kỳ hội nhập..
- Đây là trở ngại không nhỏ trong việc đưa nông nghiệp, nông thôn lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế thế giới và khu vực..
- Thứ tư: Chính sách của nhà nước về đất đai, đầu tư, khoa học công nghệ, lao động, việc làm, tiêu thụ nông sản hàng hoá còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ.Công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế thế giới không chỉ tác động đến các yếu tố đầu vào của quá trình và kết quả sản xuất nông nghiệp mà còn là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá của nông dân trên cả 2 mặt tích cực và tiêu cực, những chính sách của Nhà nước lại chưa đồng bộ, thiếu tính khả thi nên tác dụng không nhiều..
- Lợi thế của nông nghiệp Viêt Nam là chi phí lao động thấp so với các nước khác trong khu vực.
- Bên cạnh chi phí vật chất, chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao đông nông nghiệp nói chung thấp.
- Kiến thức kinh tế thị trường của người sản xuất nông nghiệp nói chung còn hạn chế.
- Tiềm năng đất đai cũng là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam nhưng chưa được khai thác hợp lý.
- Tâm lý “người cày có ruộng”, sự tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp vẫn còn chi phối nhiều cấp, nhiều ngành và bà con nông dân, nhưng chưa có giải pháp hợp lý.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại giảm dần do đô thị hoá và công nghiệp hoá.
- Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, t rong 7 năm từ 2001 đến năm 2007, diện tích đất nông nghiệp cả nước giảm 500 nghìn ha, riêng năm 2007 mất 120 nghìn ha trong đó chủ yếu là đất trồng cây hàng năm tại các vùng đồng bằng, ven các thành phố, thị xã do xây dựng khu công nghiệp, cụm công nghiệp và đô thị hoá..
- [7] Kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn năm 2008, H,2007