« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn công Trứ


Tóm tắt Xem thử

- Trung tâm Luyện thi Amax – 39 LK 6A Làng Việt Kiều Châu Âu BÀI CA NGẤT NGƯỞNG.
- Ngay lúc chưa có danh phận gì, Nguyễn Công Trứ đã từng tự hứa với mình : "Đã mang tiếng ở trong trời đất - Phải có danh gì với núi sông" (Đi thi tự vịnh).
- Chưa có rồi sẽ có, chỉ cần quyết tâm và nhất là cần tài năng, mà hai cái đó, Nguyễn Công Trứ thấy mình có đủ.
- Ông đã ngất ngưởng và thấy mình có quyền ngất ngưởng - ngất ngưởng trong đời và cả trong thơ, ngất ngưởng từ lúc bạch diện thư sinh, lúc hoạn hải ba đào cho tới tận lúc đã ra ngoài vòng cương toả.
- Đối với ông, ngất ngưởng là một giá trị, một cách khẳng định giá trị.
- Thật tự nhiên khi ông có hẳn một bài thơ nói về sự ngất ngưởng, đặt ngất ngưởng lên bình diện ý thức, nghĩa là kể về nó, luận về nó một cách trực diện - ta đang nói về bài thơ hát nói vào hàng xuất sắc nhất của Nguyễn Công Trứ : Bài ca ngất ngưởng ! Cho đến nay, trong đời sống, từ ngất ngưởng đã được dùng, được hiểu theo các nghĩa chính : 1.Thế ngồi, thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư dễ ngã, dễ đổ.
- 2.Một cách sống, thái độ sống, một kiểu ứng xử có phần khác biệt, thậm chí thách thức với các chuẩn mực thông thường vốn được người đời chấp nhận.
- Ớ bài thơ của Nguyễn Công Trứ, từ ngất ngưởng đã được dùng chủ yếu với nghĩa thứ hai, tức là nghĩa chỉ định một phạm trù thuộc tinh thần.
- Qua bốn lần xuất hiện ở những câu then chốt (câu cuối của mỗi khổ) và ở vị trí then chốt của câu (từ cuối cùng - trừ câu thứ 19, do mô hình vần của thể loại không cho phép), từ ngất ngưởng đã đảm nhiệm vai trò chính trong việc làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
- Nhân vật trữ tình trong bài thơ gần như trùng khít với tác giả.
- Hoàn toàn có thể xem đây là một bài thơ tự vịnh bởi suốt cả tác phẩm, nhà thơ nói trực tiếp về mình, từ sự nghiệp có thể gọi là hiển hách đến cách sống chẳng giống ai và thái độ tự tôn, tự tại rất mực (thơ tự vịnh yêu cầu tác giả phải cho người ta thấy được một cách khái quát đặc điểm của bản thân người viết, khác với các loại thơ trữ tình khác chỉ quan tâm bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về một vấn đề, đối tượng nào đó, còn việc "vẽ" mình chỉ là hệ quả gián tiếp của tất cả những điều trên).
- Nhưng cách tự vịnh của Nguyễn Công Trứ cũng độc đáo khác người.
- Tác giả đã dùng nhiều từ, cụm từ khác nhau để gọi mình : ông, ông Hi Vãn tài bộ, ông ngất ngưởng, tay ngất ngưởng (cũng có thể kể thêm cụm từ phường Hàn, Phú).
- Mới đọc qua, người đọc dễ tưởng có một ai đó đang nói về Nguyễn Công Trứ, bởi những ông, những tay đã được dùng như các đại từ thuộc ngôi thứ ba.
- ở đây nhà thơ đã khách quan hoá bản thân, tách mình ra khỏi mình để xem xét mà không sợ "cái mình" ấy bị "nhỏ" đi.
- Phải là một kẻ rất tự tin mới làm nổi điều này.
- Nhà thơ ý thức rất rõ rằng mình là một giá trị hiển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận.
- Ta tưởng như nghe ông nói : Cái tay Nguyễn Công Trứ ấy, cũng được đấy chứ nhỉ ! Bài ca ngất ngưởng thuộc loại bài thơ hát nói dôi khổ gồm 19 câu.
- Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
- Dĩ nhiên, đây là lí tưởng chung của những người được đào luyện trong môi trường Nho học và Nguyễn Công Trứ không có phát triển gì thêm.
- Nhắc lại nó, chẳng qua nhà thơ muốn tái hiện trạng thái tràn trề nhiệt huyết của mình buổi quyết định bước vào lồng.
- Âm vang trong câu thứ hai là một lời hứa hẹn, một thách thức, với mình và với đời, rằng : Hãy chờ đó mà xem ! về hai chữ vào lồng, có người cho rằng nó thấm vị chua chát, thể hiện sự ý thức về tình trạng trói buộc, tù túng của chốn quan trường.
- Thêm nữa, cứ cho ỉ ồng là sự trói buộc, thì điều nhà thơ muốn nói ở đây hàm chứa niềm kiêu hãnh : dù vào lồng, ta vẫn cứ nên tay ngất ngưởng, vẫn khẳng định được mình như thường, đâu phải hạng xoàng xĩnh vào luồn ra cúi ! Nguyễn Công Trứ quả có "kiêu" khi tự nhận mình là người tài ba, tài trí {tài bộ) và tinh thông võ nghệ {gồm thao lược).
- Nhưng ông đã "kiêu" một cách hoàn toàn có căn cứ.
- Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện thái độ hào hứng của tác giả khi "tính sổ" cuộc đời, thấy mình có thể "vỗ tay reo" khi nợ tang bồng đã được thanh toán sòng phẳng.
- Hoàn toàn có thể hiểu được tại sao khi rời bỏ kinh thành về quê, ông lại ngông đến thế: Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
- Chắc hẳn khi kể lại những việc đã xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, Nguyễn Công Trứ vẫn còn lấy làm thú vị hết sức.
- Dù sao đối với ông, tất cả cũng chỉ là một cuộc chơi.
- Với từ ngất ngưởng ở câu cuối khổ hai, ta hình dung thật rõ dáng ngồi ngất nghểu, khật khưỡng của tác giả trên lưng con bò cái vàng được "trang sức" bằng đạc ngựa - một dáng ngồi đầy vẻ trêu ngươi, khiêu khích, như muốn giỡn mặt với "cả và" thiên hạ, trước hết là với hàng ngũ đông đúc những quan to, quan bé trong triều.
- Bỏ lại sau lưng một thời vùng vẫy hào hùng, về nơi cố thổ, nhà thơ để tâm trí hút vào màu mây trắng trên đỉnh non cao : Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
- Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
- Nhưng trường hợp Nguyễn Công Trứ thì có khác.
- Nhà thơ đã khôi hài nói về kiểu nhập vai nửa vời, không triệt để một cách cố ý của mình.
- Nguyễn Công Trứ quả có đủ tài, đủ cái hóm hỉnh để khiến Bụt nếu không đồng loã với mình thì cũng phải bỏ qua cho mình bằng một cái cười xoà.
- Đối với Nguyễn Công Trứ, tháo được dây đeo ấn trả lại nhà vua (giải tô) là một điều kiện cần thiết để những con người khác trong ông được dịp cất tiếng nói.
- Sống, với Nguyễn Công Trứ là biết coi trọng cái hiện thế, hiện tại, biết thưởng thức, nếm trải những thú vui có trong đời như thú ngoạn cảnh thiên nhiên, chùa chiền, thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình.
- Đã là một tay tài tử, làm sao có thể thờ ơ với tất cả những cái đó ? Mọi sự được mất hãy nên phóng tâm coi nhẹ, đừng "bặm môi bặm miệng" quan trọng hoá vấn đề.
- "Khen chê phơi phới ngọn đông phong" trước hết là một sự phớt lờ, bỏ qua những lời đàm tiếu, nhưng sau đó là cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm của một kẻ tự do, biết sống vượt lên những tiêu chuẩn đạo đức lỗi thời, gò bó và khắc khổ.
- Nguyễn Công Trứ tự nhận mình là "Không Phật, không Tiên, không vướng tục".
- Nguyễn Công Trứ thấy mình không giống Phật, Tiên thì ông nói thế (Phật, Tiên gì mà đi chơi chùa lại dẫn cả đoàn con hát lên theo) và ông cũng lấy làm hài lòng vì điều đó.
- Có khá nhiều từ láy ngoài từ ngất ngưởng xuất hiện trong hai khổ thơ 3, 4 : phau phau, đủng đỉnh, dương dương, phơi phới.
- Nói chung, cả đoạn thơ thấm một ý vị hài hước rất hấp dẫn, cho thấy nhà thơ khá bằng lòng với mình, có tự giễu cợt mình cũng là giễu cợt trên tinh thần tự tin rất mực.
- Điệp từ khi được dùng kèm với những tiếng trắc, tiếng bằng luân phiên trong câu "Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng" ngoài nghĩa liệt kê vốn eó gắn liền với ý niệm về thời gian còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả được cái ngả nghiêng thoải mái của nhà thơ trong những cuộc chơi bất tận.
- Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ lúc đã ra ngoài vòng cương toả có những biểu hiện rất riêng.
- Nhưng không thể nghĩ rằng ông đã hoàn toàn khác mình trước đó.
- Thực chất vẫn chỉ có một Nguyễn Công Trứ, rất nhất quán, chỉ có điều, khi làm một hưu quan, ông có nhiều điều kiện hơn để thể hiện sự phóng túng và tư tưởng hành lạc (sống vui, vui sống) của bản thân.
- Ông hoàn toàn không tự mâu thuẫn khi gộp chung con người hành đạo và con người hành lạc vào một, trong lời tổng kết cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở khổ cuối: Chang Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông ! Sự phóng túng dù được thể hiện ở mức độ cao vẫn không dẫn nhà thơ tới thái độ hư vô chủ nghĩa.
- Trước sau ông vãn là một nhà nho có tinh thần nhập thế và luôn tâm niệm "Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung".
- Đối với Nguyễn Công Trứ, hành đạo thì cần hiệu quả và hành lạc thì cần "say sưa", tất cả đều có ý nghĩa.
- Nhìn chung, Bài ca ngất ngưởng đã khẳng định lí tưởng sống hài hoà giữa cái vì đời và cái vì mình.
- Bao trùm cả bài thơ là âm điệu khẳng định.
- Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được tài năng của bản thân khi thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc, hành đạo cứu đời.
- Ông, khác với nhiều người, đã dứt bỏ chức vị với bao nhiêu cám dỗ một cách nhẹ nhàng, không vướng bận.
- Ông đã nhập vào các cuộc chơi một cách thoải mái, với tư cách của một kẻ đam mê, dám hết mình.
- Ông có thể nói mà không thấy ngượng, với mình và với đời : "Trong triều ai ngất ngưởng như ông".
- Nguyễn Công Trứ là một kẻ tự tri.
- Nói về sự hấp dẫn của ngôn từ thơ ở Bài ca ngất ngưởng, có lẽ không thể bỏ qua việc nhà thơ vận dụng lối nói đậm tính khẩu ngữ.
- Rồi bao nhiêu từ ngữ mang tính chất nôm na, thông tục đã được "điều động" một cách linh hoạt.
- Quả tính chất khẩu ngữ của ngôn từ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sống động và gần gũi, phù hợp hoàn toàn với cốt cách con người tác giả, cũng phù hợp với âm hưởng đối thoại mà ông muốn có (không phải đối thoại trực tiếp mà là đối thoại ngầm với những cách sống, kiểu sống khác - tầm thường và hèn kém).
- Nhờ nó, ta tiếp nhận bài thơ như tiếp nhận một lời nói, giọng nói trực tiếp.
- Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không hạn định chặt chẽ trong bài thơ (nhất là với bài thơ hát nói dôi khổ) đã cho phép tác giả phô diễn một cách khoái hoạt nguồn cảm hứng dồi dào của mình.
- Có thể nói, với thể thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ đã hoàn toàn được là mình.
- Thể thơ hát nói đã cho văn học Việt Nam một Nguyễn Công Trứ như ta đã biết và ngược lại chính Nguyễn Công Trứ đem lại được cho thể thơ hát nói một vị trí vinh dự trong bảng thể loại văn học của dân tộc