« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử


Tóm tắt Xem thử

- Trung tâm Luyện thi Amax – 39 LK 6A Làng Việt Kiều Châu Âu ĐÂY THÔN VĨ DẠ (HÀN MẶC TỦ) Số đó.
- Ai cũng biết, chết là một cuộc chia lìa tất yếu và đáng sợ.
- Sống có nghĩa là đang chia lìa.
- Còn ở những người như Hàn Mặc Tử lại không được trời phú cho cái khả năng quên.
- Sống trong dự cảm khôn nguôi về thời khắc chia lìa, thi sĩ thường tự đẩy mình (giời xô đẩy thì đúng hơn) đến điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuối đời, níu đời.
- Nói khác đi, Hàn Mặc Tử làm thơ bên miệng vục của nỗi chẹt.
- Không ai yêu sống, yêu đời hơn một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống ! Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của niềm yêu ấy.
- càng tuyệt vọng, lại càng đẹp ! Thế là đau thương chứ sao ! Đau thương không chỉ là cung bậc mà còn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử.
- Cho nên mỗi lời thơ Hàn Mặc Tử thực là một lời bày tỏ da diết đến đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng.
- Và như thế, điều oái oăm đã hình thành : Tuyệt vọng đã trở thành một cảm quan, một cách thế yêu đời đặc biệt của Hàn Mặc Tử.
- Và nghịch lí này lại cũng là cấu trúc của tiếng nói trữ tình Hàn Mặc Tử : Niềm yêu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là một sự tuyệt vọng, cảnh sắc lộng lẫy chỉ là phía sáng của tấm tình tuyệt vọng.
- Kết tinh từ nguồn thơ lạ lùng oan trái đó, Đây thôn Vĩ Dụ là lời tỏ tình với cuộc đòi của một tình yêu mãnh liệt mà vô vọng.
- Mà âm điệu chính là cái điệu tâm hồn, điệu cảm xúc của thi sĩ được hình thức hoá.
- Không cần phải cố gắng lắm người ta cũng thấy ngay mỗi khổ của Đây thôn Vĩ Dạ đều vang lên trong âm hưởng của các câu hỏi không lời đáp.
- Ba khổ là những câu hỏi kế tiếp, càng về sau càng nặng lòng hơn : "Sao anh không vể chơi thôn Vĩ.
- Âm điệu như thế chuyển tải nỗi niềm gì đây ? Còn có thể là gì khác hơn nỗi đau đáu đầy uẩn khúc trong lòng thi sĩ ! Chính nó là một yếu tố liên kết đã thống nhất các khổ thơ "đầu Ngô mình Sở" vào một mối u hoài.
- Trước tiên, nó quyết định đến hình ảnh cái tôi của thi sĩ, đồng thời nó đổ bóng xuống cảm quan không gian của Hàn Mặc Tử, nó dàn dựng nên các tương quan không gian của Đây thôn Vĩ Dạ.
- Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấu số bị số phận oan nghiệt đày vào lãnh cung.
- Ấy là lãnh cung của sự chia lìa.
- Vô cùng yêu đời, thiết tha lưu luyến mọi người, vậy mà Hàn Mặc Tử đã chủ động cách li, quyết định tuyệt giao với tất cả.
- Hằng ngày ở trong cái lãnh cung ấy, thi sĩ thèm khát thế giới ngoài kia.
- Từ bấy, trong thơ Hàn Mặc Tử hình thành hai không gian với sự phân định nghiệt ngã : Ngoài kia và Trong này.
- Đọc thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay Ớ đây) là hai thế giới hoàn toàn tương phản.
- Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về Ngoài kia trong hồn thi sĩ.
- Thôn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia.
- Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hoá .
- Trong văn bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan không gian như thế ở hai nơi chốn : "thôn Vĩ" (Ngoài kia) và "ở đây "(Trong này).
- Hình tượng cái tôi thi sĩ hiện ra như một người đang "ở đây", à Trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng vể "thôn Vĩ", về Ngoài kia.
- Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao ? Chẳng phải lời tỏ tình ấy càng vô vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao Đau thương đã tìm đến "thơ điên" như một hình thức đặc thù đối với Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau .
- Sẽ không quá lời khi nói rằng Hàn Mặc Tử đã buộc chúng ta phải xét lại cái quan niệm hẹp hòi lâu nay về "điên" và "thơ điên".
- Điên ở Hàn Mặc Tử là trạng thái đau thương bên trong đang chuyển hoá thành sáng tạo.
- Có hình dung như vậy mới thấy Đây thôn Vĩ Dạ vẫn cứ là "thơ điên" theo đúng nghĩa, dù chưa đủ hết mọi đặc trưng điên.
- Khổ một còn ở thôn Vĩ Ngoài kia, khổ hai rồi phần đầu khổ ba nữa vẫn là Ngoài kia, đến cuối khổ thứ ba thì đã bay vụt vào Trong này, đã "ở đây" rồi.
- Nó là chốn nào vậy ? Còn chốn nào khác, ngoài cái nơi Hàn Mặc Tử đang bị căn bệnh tàn ác ấy hành hạ ? Chẳng phải đó là sự chuyển tiếp lối "cóc nhảy" rất đặc thù của "liên tưởng thơ điên" đó sao ? Điều đáng nói là : nếu lối liên tưởng đứt đoạn, bất định của "thơ điên" tạo ra sự chuyển làn các cảnh sắc, các miền không gian một cách đột ngột đến tưởng như phi lí, thì âm điệu tự nhiên, nhuần nhuyễn của cùng một mối u hoài, trong cùng một lối thơ chia thành các khổ vuông vức tề chỉnh lại đã san lấp, phủ kín hoàn toàn những quãng đứt nối, khiến người đọc cứ mặc nhiên coi rằng bài thơ là sự nói rộng cùng một không gian Vĩ Dạ, mà không thấy rằng đó là sự ghép nối rất bất chợt, xuất thần giữa các vùng không gian vốn góc biển chân trời ("thôn Vĩ" là Ngoài kia, còn "ở đây" là Trong này).
- Theo tài liệu đáng tin cậy mới đây của Phạm Xuân Tuyển, trong cuốn Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử, (NXB Văn học, 1997) thì bài thơ vốn có tên đầy đủ là Ởđây thôn Vĩ Dạ.
- Bấy giờ, thi sĩ đang tuyệt giao với tất cả, đến ở một chốn hoang liêu mạn Gò Bồi, cách li hoàn toàn với bên ngoài để chữa bệnh.
- Theo đó thì, cái nơi chốn "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh" lại càng là sự biểu hiện trực tiếp của chốn "trời sâu" bất hạnh mà Hàn Mặc Tử đang bị lưu đày ("Tôi đang còn đây hay ở đâu.
- Có hiểu như thế ta mới thấy lối biểu hiện phức tạp của "thơ điên" và tình yêu tuyệt vọng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử.
- Bởi thế Đây thôn Vĩ Dạ vẫn có một hình thái khá đặc thù của một thi phẩm "thơ điên".
- Tất cả vẫn khiến cho thi phẩm là một nguyên khối.
- Vì thế, vào cõi thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cần chú mục vào phần "lộ thiên", mà cần đào rất sâu vào tầng "trầm tích" nữa ! 2.Bước vào thi phẩm Dù là "thơ điên" hay thơ gì chăng nữa, một khi đã là một thi phẩm giành được chỗ đứng trang trọng trong kí ức của người đọc nhiều thế hệ, thì dút khoát phải nhờ vào vẻ đẹp tư tưởng của nó.
- Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng, chuẩn mực quan trọng nhất của cái đẹp theo quan niệm của thi sĩ chính là sự THANH KHIẾT.
- Điều này vừa có nguồn gốc từ trong nhãn quan của một thi sĩ trước cuộc đời, vừa từ tín niệm tôn giáo của một kẻ mộ đạo.
- Ở cảnh vật, nó hiện ra thành vẻ THANH TÚ (thiên nhiên lí tưởng theo Hàn Mặc Tử phải là "chốn nước non thanh tú.
- Quan niệm về cái đẹp như thế đã chi phối ngòi bút Hàn Mặc Tử khi thể hiện con người và thiên nhiên.
- Vì mặc cảm chia lìa với tất cả những vẻ đẹp trần gian kia, mà thi sĩ lâm vào tuyệt vọng.
- Và đương nhiên, Hàn Mặc Tử đã cảm nhận chúng qua lăng kính của niềm tuyệt vọng.
- Có thể trường hợp Hàn Mặc Tử là một minh chứng đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Va-lê-ri : Cái đẹp lù cái làm ta tuyệt vọng.
- Câu mở đầu : "Sao anh không về chơi thôn Vĩ.
- Giờ đây chẳng ai còn ấu trĩ gán cho nó là câu hỏi của Hoàng Cúc hay của một cô gái nào ở thôn Vĩ nữa.
- Đó là Hàn Mặc Tử đang phân thân để tự hỏi chính mình.
- Ta đều biết tuổi nhỏ Hàn Mặc Tử đã từng học trường Pellerin ở Huế, và khi in xong tập Gái quê, Hàn Mặc Tử đã từng đến tìm Hoàng Cúc tại thôn Vĩ mà rồi chỉ nấp nom ngoài rào trúc chứ không dám vào.
- Còn ba câu sau vẽ ra hình tượng mảnh vườn thôn Vĩ: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
- Đọc thơ Hàn Mặc Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một mô típ ám ảnh.
- Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Hàn Mặc Tử đều mang chung một diện mạo mà nhà thơ muốn gọi là "chốn nước non thanh tú".
- Phải, thiên nhiên mà thi sĩ say đắm dứt khoát phải có vẻ đẹp thanh tú ! Không thế, Hàn Mặc Tử khó mà động bút.
- Nghĩa là một "chốn nước non thanh tú" hoàn toàn.
- Trong thơ Hàn Mặc Tử, nắng cũng là mô típ ám ảnh.
- Trong mảnh vườn này, Hàn Mặc Tử chỉ nói giản dị "nắng hàng cau nắng mới lên", cớ sao mà gợi thế ! Có lẽ nó đã gợi lên một sắc nắng tinh khôi, thanh khiết và thanh thoát mà chỉ hàng cau vào lúc ban mai mới có thể có được chăng ? Song, trọng tâm của hình tượng vườn dường như thuộc về những nét vẽ ở hai câu sau.
- Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang toả vào ban mai cả những ánh xanh nữa.
- Khảo sát phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, thấy thi sĩ này rất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhất là ở giai đoạn cuối.
- Cũng phải thôi, lộng lẫy đến thế, ngay trước mắt thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau thương ! Nhưng, bên cạnh những chữ phô ngay ra vẻ quyến rũ ấy, còn có những chữ khác, khép nép bên cạnh, khiêm nhường kín đáo thôi, nhưng dường như lại được Hàn Mặc Tử yêu tin mà kí thác vào đó những uẩn khúc của lòng mình.
- Thiết tướng muốn xác định là đàn ông hay phụ nữ, trước tiên cần phải trả lời một câu hỏi khác : đó là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ ? Nếu xét thuần tuý về cú pháp câu thơ, người đọc có quyền hiểu theo cả hai cách.
- Nhưng xét trong tương quan với toàn cảnh và trong hệ thống mô típ phổ biến ở thơ Hàn Mặc Tử, thì có thể loại trừ được cách không phù hợp.
- Nếu là người thôn Vĩ (chủ nhân khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ.
- Một người đàn ông về thôn Vĩ chắc không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông ! Còn là người trở về thôn Vĩ, thì người ấy chính là Hàn Mặc Tử, nói chuẩn hơn là hình tượng của chính cái tôi thi sĩ.
- Tìm trong thơ Hàn Mặc Tử, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu.
- như thế này thường là hình bóng tự hoạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
- Mà Hàn Mặc Tử vẫn có cái "thói" tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh và có phần.
- Gió căng hơi và nhạc lên trời", "Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó - Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu.
- Thực ra, cũng chả riêng gì Hàn Mặc Tử vơ vào.
- Sâu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa.
- Mặc cảm này thường khiến Hàn Mặc Tử vẽ mình trong các trang thơ như một "kẻ đứng ngoài", "kẻ đi ngang qua cuộc đời", kẻ "đúng cách xa hàng thế giới", là vị "khách xa", kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế.
- Thi sĩ hình dung mình trở về thôn Vĩ (hay tái hiện cái lần mình đã trở về mà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thế.
- Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử mà thôi.
- Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia, vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian.
- Với Hàn Mặc Tử đó là thiên đường trần gian - một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi tầm mình, về thôn Vĩ vốn là việc bình thường, với Hàn Mặc Tử giờ đây lại thành một ước ao - ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc - hạnh phúc quá tầm tay.
- Mặc cảm chia lìa ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu : Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyên ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay ? Hai câu trên nói đến một thực tại phiêu tán.
- Hàn Mặc Tử nhìn hoa bắp lay, nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi.
- Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái "lay" kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa ? Có phải Hàn Mặc Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình ? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến thi sĩ nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng "lay" sầu tủi của hoa bắp ? Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngoài tầm sống của mình ấy, thi sĩ chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng về vói mình, ấy là trăng.
- Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với Ngoài kia ("Sao anh không về chơi thôn Vĩ.
- thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Hàn Mặc Tử, về với Trong này.
- Cũng phải thôi, trong "lãnh cung" của sự chia lìa, vốn "không có niềm trăng và ý nhạc", nên Hàn Mặc Tử đã đăt vào trăng kì vọng của mình : "Có chở trăng về kịp tối nay.
- Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Hàn Mặc Tử hơn.
- còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng.
- Thơ là sự lên tiếng của thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
- Tất cả đều là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới Ngoài kia.
- ở trên, tôi đã nói đến vẻ đẹp trinh khiết như là chuẩn mực cho cảm quan thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử.
- Trinh khiết trở thành vẻ đẹp phổ biến của thế giới và của những Nàng Thơ trong cõi thơ Hàn Mặc Tử.
- Những người con gái trong thơ Hàn Mặc Tử bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ trinh khiết xuân tình.
- Và đắm say tột bậc cái vẻ đẹp này, Hàn Mặc Tử thường cực tả bằng những sắc trắng dị kì.
- Thi sĩ dồn cả màu cả ánh để diễn đạt cho được trực cảm của mình.
- Nhiều người phân tích chưa nhận thấy đặc trưng này của thơ Hàn Mặc Tử đã giải thích áo trắng quá nhìn không ra ỉà bởi lẫn vào sương khói.
- Đến đấy, Hàn Mặc Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mịt mờ : Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ? Được viết gần như đồng thời với bài Những giọt lệ, cho nên ta cứ nghe đâu đây trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, như tuyệt vọng : "Tôi đang còn đây hay ở đâu.
- Bao giờ tôi hết được yêu vì Hàn Mặc Tử yêu đời đến đau đớn.
- Còn cuộc đời, tình đòi còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu ? Cuộc đời Ngoài kia vẫn cứ kì diệu thế, vẫn "cách xa nghìn thế giới" như thế, vẫn cứ cách ở đây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế.
- Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Hàn Mặc Tử với ngoài ấy.
- Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình Đây thôn Vĩ Dạ.
- Những đối chiếu giữa thi phẩm với thế giới nghệ thuật của thi sĩ : từ cội nguồn của tiếng nói trữ tình đến hình thức đặc thù của "thơ điên", từ lớp biểu tượng ở tầng trầm tích đến phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử.
- Tuy nhiên điều tôi muốn nói thêm trước khi dừng là : Thôn Vĩ vẫn còn nhiều bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành hương khác