« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh


Tóm tắt Xem thử

- Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh - Ngữ văn 11.
- Bài thơ Lai Tân sử dụng bút pháp tự sự trào phũag giàu chất trí tuệ..
- Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình (Lai Tân y cựu thái bình yên).
- “Lai Tân”.
- Lai Tân mà vẫn như xưa.
- Cái trời đất Lai Tân này sắp sụp đổ..
- Lai Tân đang đại loạn..
- "hiện thực”, "Lai Tân".
- Tác giả "Lai Tân".
- chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung)..
- "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình".
- ‘Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh".
- Với "nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm"t tác giả "Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
- chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày.
- bằng sự "thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân "thái bình".
- Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên "như xưa".
- Không phải chỉ ở "Lai Tân".
- "Lai Tân".
- Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân.
- Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung..
- Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự, Lai Tân y cựu thái bình thiên..
- Huyện trưởng chong đèn làm việc công, Lai Tân vẫn thái bình như xưa..
- Chong đèn, huyện trưởng làm công việc, Trời đất Lai Tân vẫn thái bình..
- Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc.
- Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân.
- Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
- Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường..
- Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường.
- Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội.
- Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
- “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân.
- Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực.
- Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”,.
- “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
- Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hòan thành “Lai Tân”.
- Duy có bài thơ Lai Tân là có giá trị tổng kết hiện thực trong và ngoài nhà tù, phác họa được bộ mặt của nhà cầm quyền trong và ngoài nhà tù ở huyện Lai Tân mà cũng là bộ mặt điển hình cho nhà cầm quyền Trung Quốc dưới thời Quốc dân đảng bấy giờ..
- Câu thơ chỉ đưa tin, không bình luận mà có sức tố cáo sâu sắc chế độ nhà tù ở Lai Tân.
- Lại cũng là một quan chức thi hành pháp luật: Cảnh sát trưởng ở Lai Tân! Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền.
- Tác giả đã lôi ra hai tên trưởng ở Lai Tân làm bậy, tên thì đánh bạc, tên thì ăn hối lộ.
- Bài thơ Lai Tân lên án thái độ và hành động vô trách nhiệm của nhà cầm quyền ở Lai Tân mà cũng là của xã hội Trung Quốc thời Quốc dân đảng.
- Giáo sư Lê Trí Viễn viết: Bài Lai Tân có một câu không rõ nghĩa ngay ở nguyên văn: Khiêu đăng huyện trưởng biện công sự (dịch: Khiêu đèn, huyện trưởng làm công việc).
- Đại ý câu hỏi là tên huyện trưởng trong bài thơ Lai Tân làm công việc hay hút thuốc phiện.
- Hắn làm huyện trựởng Lai Tân mà hai tên quan tai to mắt lớn trưởng và cảnh trưởng làm bậy sờ sờ trước mũi hắn, hắn không thấy.
- Vậy mà duới đèn chong, dưới mắt hắn: Lai Tân y cựu thái bình thiên.
- Nụ cười châm biếm của Hồ Chí Minh thật sâu cay! Hãy nghe thêm lời bình của nhà thơ Hoàng Trung Thông về tên huyện trưởng này: “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh, còn cái trời đất Lai Tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở.
- Xét về mặt cấu trúc, không nên xem ngang bằng ba câu một, hai, ba vì như vậy thì chủ đề bài thơ chỉ là phê phán những thói hư tật xấu của bọn quan lại đương thời ở Lai Tân.
- Và như vậy, chủ đề của bài thơ Lai Tân là lên án thái độ và hành động vô trách nhiệm của nhà cầm quyền ở Lai Tân mà cũng là của xã hội Trung Quốc thời Quốc dân đảng.
- Bài thơ “Lai Tân” là một bài thơ đã khái quát hóa được bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.
- “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh Chong đèn huyện trưởng làm công việc Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.”.
- “Lai Tân” là bài thứ 97.
- Câu thơ mở đầu bài thơ “Lai Tân” tác giả đã chộp được một sự kiên hết sức kinh ngạc là ban trưởng nhà lao đánh bạc.
- “Chong đèn huyện trưởng làm công việc Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
- “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự Lai Tân y cực thái bình thiên”.
- Trong con mắt huyện trưởng thì huyện Lai Tân của hắn vẫn “thái bình” như xưa và hắn tự hào về cái thái bình đó.
- Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bình luận về hai chữ “thái bình” này rất đúng “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh còn đất trời Lai Tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở.
- Bài thơ “Lai Tân” chỉ đưa ra ba hình ảnh tiêu biểu cho bọn quan lại thời bấy giờ của Trung Quốc như là ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng nhưng nhà thơ đã khái quát hóa được cái bộ mặt thối nát của giai cấp thống trị thời Tưởng Giới Thạch là vừa tham lam vừa vô trách nhiệm trước xã hội.
- Bài thơ Lai Tân đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch.
- Thành công của bài thơ Lai Tân là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình với một kết cấu chặt chẽ vững chắc..
- Bài thơ Lai Tân có kết cấu gồm 2 phần, với hai cách cấu tứ khá bất ngờ.
- Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh giặc, còn cái trời đất Lai Tân này thì muôn thuở vẫn thế.
- của Lai Tân — cảnh tượng thu hẹp của cái giang sơn dưới bàn tay nhà họ Tưởng..
- Trong đó bài thơ Lai Tân thể hiện rất rõ nét vấn đề này:.
- Trời đất Lai Tân vẫn thái bình..
- Hai nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và được gắn kết chặt chẽ bằng nghệ thuật trào phúng độc đáo rất Hồ Chí Minh Trước hết bài thơ Lai tân vạch rõ bộ mặt thật của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.
- Như chúng ta đã biết tập Nhật kí trong tù được Hồ Chí Minh sáng tác trong hoàn cảnh bị chính quyền Tưởng Giới thạch bằng một con mắt tinh tế và độc đáo, trong đó có nhà tù Lai Tân:.
- Ba câu thơ đầu của bài thơ cho ta thấy rõ cảnh tượng của nhà giam Lai Tân.
- Dường như ta chỉ thấy nhà thơ thuật lại cảnh mà mắt thấy tai nghe ở nhà tù Lai tân mà không hề tỏ thái độ gì.
- Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
- Nhưng tại sao trời đất vẫn thái bình? Vậy thái bình là ở Lai Tân là thái bình gì? Phải chăng đó là hiện tượng thái bình giả tạo? Nhưng kì thực đó là lời mỉa mai chua xót.
- Hóa ra thái bình ở Lai tân là thái bình mà ban trưởng đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền và huyện trưởng cứ chong đèn mà hút thuốc.
- Lai Tân".
- Hóa ra từ xưa tới giờ Lai Tân "vẫn thái bình".
- Bài thơ "Lai Tân".
- Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy đã khiến "Lai Tân".
- Trong tác phẩm của mình, Người đã nhiều lần phản ánh và đả kích điều này, một trong những bài thơ như thế là “Lai Tân”..
- Lai Tân y cựu thái bình thiên.
- Dịch thơ:Trời đất Lai Tân vẫn thái bình..
- Có những tên quan cai quản như vậy mà trời đất Lai Tân này vẫn thái bình được ư?.
- Bài thơ Lai Tân sử dụng bút pháp tự sự trào phúng giàu chất trí tuệ..
- đối với "Lai Tân".
- Lai Tân mà văn như xưa.
- Nếu bài “Mộ” tiêu biểu cho nội dung thứ hai thì “Lai Tân” rất tiêu biểu cho nội dung thứ nhất.
- “Lai Tân” sử dụng nghệ thuật chậm biếm hết sức sắc sảo độc đáo, đạt hiệu quả cao.
- Lời dịch thơ đã không tố cáo được bản chất của quan “cảnh trưởng” huyện Lai Tân: “Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”..
- Cả hai nhân vật “ban trưởng” và “cảnh trưởng” đều cùng hệ thống- nghĩa là cả hai đêu phụ trách về an ninh của huyện Lai Tân.
- Ba nhân vật cao nhất của chính quyền huyện Lai Tân là ba con người phạm tội.
- “Lai Tân y cựu thái bình thiên” Nghĩa là ngày nào Lai Tân cũng thái bình như xưa..
- Vậy là Lai Tân rất thái bình, dân tình rất yên ổn, quan lại cũng yên ổn chỗ ngồi..
- Ngàyhôm nay người dân Lai Tân vẫn sống không khác ngày xưa.
- “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”, vậy mà:.
- Bài Lai Tân có thể xếp vào loại thứ nhất.
- Theo lô gích thông thường, người đọc chờ đợi ở câu kết này một lời phê phán mạnh mẽ, một sự lên án quyết liệt tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân.
- Lai Tân y cựu thái bình thiên..
- Nhưng đó chính là một cách ra đòn rất hiểm đã tạo nên một sức mạnh đả kích thật là quyết liệt: tình trạng của bọn quan lại đất Lai Tân diễn ra như thế là trong hoàn cảnh hết sức bình thường đấy thôi.
- Không, tình hình Lai Tân xưa nay vẫn thế.
- Ban trưởng ngày ngày cứ đánh bạc, cảnh trưởng lo móc túi phạm nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn hút thuốc phiện – bộ máy cai trị đã có sự phân công phân nhiệm rõ ràng, người nào việc nấy cứ thế mà làm, không ai phải giẫm đạp lên công việc của ai, tất cả đã trở thành nề nếp, trở nên ổn định từ lâu rồi : "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình ".
- hạ xuống, tự nhiên tình trạng thối nát của bọn quan lại Lai Tân bỗng trở thành chuyện bản chất của một chế độ, chuyện phổ biến của bộ máy chính quyền thời Tưởng Giới Thạch.
- Đặt trong hoàn cảnh ấy càng thấy sự thối nát và thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại ở Lai Tân đã lên đến cực độ.
- Đất nước bị tàn phá, đồng bào bị chém giết, vậy mà "Trời đất Lai Tân vẫn thái hình".
- Lai Tân chỉ là một tiếng cười khẩy thế thôi, mà đã phóng ra một đòn có thể nói là chí tử.