« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích cái ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu trời


Tóm tắt Xem thử

- PHÂN TÍCH CÁI NGÔNG CỦA TẢN ĐÀ TRONG BÀI THƠ HẦU TRỜI.
- Phân tích cái ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu trời mà Học247 giới thiệu dưới đây sẽ giúp các em cảm nhận được thái độ ngông trong văn chương chính là phản ứng của những nghệ sĩ tài hoa có cá tính mạnh mẽ, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp có sẵn như Tản Đà.
- Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu xuất thân trong một gia đình khoa bảng ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội.
- Là nhà Nho nhưng Tản Đà không chịu khép mình trong khuôn khổ Nho giáo mà lại có những phá cách rất táo bạo.
- Tính chất giao thời thể hiện rất rõ trong cuộc đời, lối sống, học vấn và sự nghiệp văn chương của Tản Đà..
- Bài Hầu Trời in trong tập Còn chơi, xuất bản năm 1921, nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn đậm chất ngông của thi sĩ Tản Đà - một vị trích tiên như tác giả tự nhận, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị Thượng đế đày xuống hạ giới..
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận: cái ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu trời.
- Hầu Trời là bài một thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới mẻ về mặt thi pháp, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà.
- Đề bài: Phân tích cái ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu trời Gợi ý làm bài:.
- Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu xuất thân trong một gia đình khoa bảng ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội, một vùng có khung cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình.
- Mẹ là bà Phủ Ba cũng thông thạo chữ nghĩa và thích văn chương thi phú.
- Thi sĩ có hai câu thơ rất hay giới thiệu về vẻ đẹp của quê hương mình:.
- Tản Đà.
- Tản Đà có những đóng góp rất quan trọng cho nền văn học nước nhà.
- Tản Đà là người của hai thế kỉ.
- Trong sáng tác, tuy Tản Đà vẫn thường sử dụng những thể loại cổ điển nhưng cảm hứng thì lại rất mới mẻ.
- Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái.
- Bởi vậy nên nhà nghiên cứu phê bình văn học Hoài Thanh đã trân trọng xếp Tản Đà ở vị trí đầu tiên trong cuốn Thi nhân Việt Nam..
- Bài Hầu Trời in trong tập Còn chơi, xuất bản năm 1921, nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn đậm chất ngông của thi sĩ Tản Đà - một vị trích tiên như tác giả tự nhận, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị Thượng đế đày xuống hạ giới.
- Có lúc chán chường trước cảnh đời nhiễu nhương, đen bạc, thi sĩ than thở:.
- Có khi cao hứng, thi sĩ còn mơ lạc bước vào chốn Thiên Thai, được gặp gỡ các giai nhân như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi.
- đàm đạo văn chương với Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương.
- Còn lần này thì thi sĩ đã được mời lên tận thiên đình để đọc thơ Hầu Trời!.
- Qua bài thơ này, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện “cái tôi” cá nhân - một “cái tôi” ngông nghênh, phóng túng lạ kì! Đó cũng là cách thể hiện ý thức về tài năng, giá trị đích thực của bản thân và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
- Đêm khuya thanh vắng, thi sĩ buồn nên đun nước pha trà uống rồi cất tiếng ngâm văn.
- Hai tiên nữ xuống truyền lệnh Trời đòi thi sĩ lên hầu chuyện.
- Thi sĩ được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc văn thơ.
- Trời và chư tiên hết lời khen ngợi, tán thưởng.
- Trời truyền hỏi danh tính, thi sĩ kể lể tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn dưới hạ giới.
- Trời an ủi, khuyên nhủ, thi sĩ cảm kích lạy tạ ra về.
- Cuối cùng là cuộc chia tay đầy xúc động của thi sĩ với Trời và chư tiên..
- Cách vào đề của bài thơ khá thú vị, khiến người đọc cảm nhận được tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và lối dẫn dắt rất có duyên của Tản Đà:.
- Giấc mơ đêm qua mà thi sĩ là người trong cuộc cũng không biết rõ là có hay không, thực hay hư.
- Bởi vậy mà ở ba câu tiếp theo, thi sĩ cả quyết khẳng định như đang đối thoại với người nghe kể vậy.
- Ở những khổ thơ tiếp theo, thi sĩ đã kể về tình huống mình được Trời mời lên Thiên đình:.
- Văn chương nào có hay cho lắm Trời đã sai gọi thời phải lên..
- Tình huống câu chuyện bắt đầu từ “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” của thi sĩ dưới hạ giới làm cho “Trời mất ngủ”.
- Rõ ràng, cái duyên may được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của thi sĩ.
- Khi chư tiên đã tề tựu đông đủ, Trời liền: Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe.
- Được lời như cởi tấm lòng, thi sĩ vội vàng cung kính: “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.
- Thi sĩ đọc văn thơ của mình với tất cả sự phấn khích và thăng hoa của cảm hứng.
- Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại hứng thú đến như vậy.
- Không để sót một khoảng trống nào của thời gian, thi sĩ đọc liền một mạch:.
- Thi sĩ cao hứng và tự đắc vì có lẽ đây là dịp hiếm hoi để Trời và các chư tiên thưởng thức thơ của thi sĩ sông Đà, núi Tản.
- Các chư tiên đồng thanh tán thưởng và hồn nhiên bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ....
- Điều đó làm cho cảm hứng trong lòng thi sĩ mỗi lúc một dâng cao:.
- Thi sĩ cao hứng tự nhận:.
- Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:.
- Trời nghe thi sĩ đọc văn đã không tiếc lời khen tặng và những lời khen đó chứng tỏ Trời có khả năng thẩm văn, thẩm thơ tinh tế:.
- Rõ ràng ý thức về “cái tôi” cá nhân của Tản Đà rất cao và thi sĩ không hề vô lí khi tự khen đến thế: Văn đã giàu thay lại lắm lối.
- Tưởng chừng tinh hoa của núi Tản sông Đà đã được thu cả vào hồn thơ thi sĩ.
- Tình huống Hầu Trời bất ngờ quả đã cho Tản Đà một cơ hội tuyệt vời để phô bày tài năng văn chương của mình trước thiên hạ.
- Thật thú vị khi tất cả nhân vật trong câu chuyện đều có tâm trạng hứng khởi tột độ, từ thi sĩ đến chư tiên và nhất là Trời - một ông Trời khá bình dân trong cung cách cư xử, nói năng.
- Điều đáng chú ý là thi sĩ chỉ cao hứng tột độ như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm với mình mà thôi.
- Chứ dưới hạ giới, thi sĩ dễ đâu tìm được người tri âm tri kỉ như vậy?! Lời ban khen của Trời hẳn là sự thẩm định, đánh giá chính xác nhất, không ai có thể nghi ngờ hay bác bỏ.
- Người đọc có cảm giác như thi sĩ vô cùng tự hào khi khẳng định và ca ngợi tài năng văn chương của mình.
- Có lẽ một cuộc cách mạng về thơ ca thực sự đã được bắt đầu từ chính Tản Đà - thi sĩ được coi là “cây cầu nối” giữa thơ cũ và thơ mới..
- Thể theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:.
- Được lời như cởi tấm lòng, Tản Đà trình bày một mạch những nỗi niềm bức xúc của mình chất chứa bấy lâu nay.
- Qua lời Trời, Tản Đà nói đến nhiệm vụ truyền bá thiên lương mà Trời giao cho, (giải thích để loài người hiểu rằng lương thiện vốn là bản tính trời sinh).
- Điều đó chứng tỏ Tản Đà tuy lãng mạn, ngông nghênh nhưng không hoàn toàn thoát li hiện thực mà vẫn có ý thức trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời.
- Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong đoạn thơ dưới đây, thi sĩ lại sử dụng bút pháp tả thực cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết:.
- Văn chương hạ giới rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực rất khó..
- Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn chương và nghề văn, tuy vậy người đọc vẫn có thể hình dung ra phần nào về nội dung của hoạt động tinh thần đặc biệt này.
- Đối với Tản Đà, văn chương không còn đơn thuần là một khái niệm tinh thần cao siêu mà đã trở thành một nghề kiếm sống như bao nghề khác, có người bán kẻ mua và thị trường văn chương cũng hết sức phức tạp.
- Tản Đà đã vẽ ra một bức tranh hiện thực trần trụi, nghiệt ngã về nghề văn bằng ngôn ngữ.
- thi sĩ đành phải mưu sinh bằng công việc viết văn, làm thơ và xuất bản mà vốn liếng chẳng có gì ngoài ngòi bút: Giấy người mực người thuê người in, Mướn cửa hàng người bán phường phố.
- Người nghệ sĩ phải cam chịu cảnh: Văn chương hạ giới rẻ như bèo, Kiếm được đồng lãi thực rất khó, Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều, Lo ăn lo mặc hết ngày tháng.
- Kể đến đây, cảm xúc của thi sĩ chợt ngậm ngùi, chua chát, khác hẳn với cảm xúc trữ tình bay bổng, đắc ý khi đọc thơ cho Trời nghe..
- Tất cả những điều ấy đã hiện ra nhiều lần trong thơ văn Tản Đà, một thi sĩ tài hoa hơn người mà cả đời phải sống trong tình cảnh nghèo khổ, quẫn bách:.
- Giấc mơ Hầu Trời phải chăng là biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát vọng được khẳng định tài năng của thi sĩ giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo và thân phận của người sáng tạo bị xã hội rẻ rúng, khinh khi.
- Vậy thì chỉ có thể lên thiên đình thi sĩ mới có thể tìm được tri âm tri kỉ, mà chuyện này chỉ có thể xảy trong giấc mộng mà thôi! Dường như Trời cũng thấu hiểu nỗi niềm bức xúc của thi sĩ nên chân thành khuyên nhủ:.
- Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và chư tiên diễn ra quyến luyến và xúc động.
- Thi sĩ tỉnh mộng nhưng ấn tượng về cuộc hầu Trời vẫn còn nóng hổi khiến thi sĩ bâng khuâng tiếc nuối và ao ước đêm nào cũng được lên thiên đình để hầu Trời..
- Câu chuyện về cuộc đọc văn Hầu Trời và các chư tiên đã phản ánh khá rõ tâm hồn và tính cách của Tản Đà - một thi sĩ ngông và hay sầu mộng.
- Đó là một Tản Đà ý thức rất rõ về tài năng của mình, dám đàng hoàng, công khai thể hiện và khẳng định một cách tự hào, tự đắc về cái tài văn chương hơn người ấy.
- Thi sĩ chẳng ngần ngại tự khen mà còn mượn những lời tán dương của Trời cùng các chư tiên để đề cao thơ văn mình.
- Trong một bài thơ tự vịnh, Tản Đà đã kiêu hãnh viết:.
- “Cái tôi” đó cũng thật ngông khi dám tìm lên tận thiên đình để khẳng định tài năng của mình trước các chư tiên và Ngọc Hoàng thượng đế!.
- Thái độ ngông trong văn chương chính là phản ứng của những nghệ sĩ tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp có sẵn.
- Ngông trong văn chương bao giờ cũng gắn liền với tài hoa và nhân cách của người cầm bút.
- Tản Đà không phải là một trường hợp cá biệt trong văn học Việt Nam mà trước ông đã có quan Thượng Nguyễn Công Trứ với: Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng, ngẩng cao đầu thách thức: Trong triều ai ngất ngưởng như ông?.
- Tuy nhiên, cái ngông của Tản Đà có những điểm đặc thù do chịu ảnh hưởng của buổi giao thời dở Tây dở ta.
- Tản Đà phản ứng xã hội bằng thái độ ngông của một nghệ sĩ tài hoa tài tử..
- Thái độ ngông nghênh, tự đắc dường như được thi sĩ cố ý phóng đại trong bài Hầu Trời cốt để gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
- Nhà thơ đánh giá văn mình hay đến mức Trời và các chư tiên phải hết lời tán thưởng.
- Tản Đà còn tự nhận mình là một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông, nhưng lại được Trời trao cho sứ mệnh cao cả làtruyền bá thiên lương cho loài người..
- Việc nhà thơ thêu dệt nên chuyện Hầu Trời hàm chứa một sự thách thức đối với cái nhìn đầy thành kiến về bậc thang giá trị của con người trong xã hội tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ các giá trị tinh thần.
- Cái ngông của Tản Đà có nhiều điểm tương đồng với cái ngông của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua bài Bài ca ngất ngưởng: Ý thức rất cao về tài năng của bản thân, dám nói giọng bông lơn về những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt.
- Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, còn Tản Đà lại không coi đó là chuyện hệ trọng.
- Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe thuộc phạm trù văn chương chứ không phải là cái tài.
- Rõ ràng, thi sĩ Tản Đà đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm mà thông thường các nhà Nho từ trước tới nay vẫn tự đặt trên vai mình (Vũ trụ nội mạc phi phận sự) để sống thoải mái hơn với quyền tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới..
- Bài thơ Hầu Trời được viết theo thể thất ngôn trường thiên khá tự do về số lượng câu.
- bình dân và giọng điệu hài hước rất ăn ý, hoà hợp, hỗ trợ cho nhau nhằm thể hiện sinh động thái độ hào hứng của thi sĩ trước một đối tượng đặc biệt đang say sưa nghe mình đọc văn, ngâm thơ.
- Quan hệ giữa thi sĩ với Trời và chư tiên xem ra cũng dân dã, thân mật như giữa những người đồng thanh tương khí..
- Lối kể bịa mà như thật và nụ cười hóm hỉnh tạo nên nội dung trữ tình của bài thơ, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người thi sĩ.
- Những yếu tố nêu trên là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện Hầu Trời mà tác giả hư cấu.
- Chư tiên ao ước tranh nhau dặn.
- Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì là đạo mạo.
- Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của các đấng cao siêu mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nghĩnh, rất “người” như thế, ai mà chẳng buồn cười và khâm phục cách kể chuyện tự nhiên, sinh động của thi sĩ Tản Đà