« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích đoạn thơ Thuý Kiều báo ân báo oán


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Phân tích đoạn thơ Thuý Kiều báo ân báo oán Bài mẫu số 1:.
- Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân..
- Những câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán..
- Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại.
- Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư thật tài tình..
- Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc Lang.
- Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:.
- Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục..
- Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh.
- Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng.
- Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương.
- Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ Thúc Sinh.
- Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân.
- phận tội đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư.
- Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
- Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng.
- Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
- Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn rỉ máu làm cho nàng không những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần..
- Cuộc đối đáp giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:.
- rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư..
- Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với Hoạn Thư.
- Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai họa.
- Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa..
- Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca.
- Những điều Hoạn Thư kêu ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình..
- Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lý chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
- Với lý lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ.
- Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người cùng chung chút phận đàn bà.
- Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan.
- Ý Hoạn Thư muốn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ:.
- Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê..
- Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có..
- Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen.
- Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
- Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại..
- Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.
- Cảnh báo ân..
- Chàng Thúc Sinh khi được "gươm mời đến".
- Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng lòa.
- Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng "gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân".
- mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào..
- Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều "báo ân".
- Lí lẽ của Thuý Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự báo ân mà là sự trả nghĩa, đúng hơn là trả cái tình mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây.
- Như vậy, đối với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã không xử bằng lý mà bằng cái tình của nàng..
- Đối tượng báo oán ở đây là Hoạn Thư vợ Thúc Sinh.
- Mặc dù không trực tiếp đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh nhưng Hoạn Thư cũng là kẻ đã gây không ít đau khổ cho cuộc đời Kiều.
- Con người đã trở thành hình tượng điển hình cho sự ghen tuông ấy đã lặng lẽ cho người đến bắt nàng về, đã dựng cảnh trớ trêu: bắt nàng hầu rượu Thúc Sinh để mà hả hê sung sướng khi tận mắt chứng kiến nỗi cực nhục của cả hai người.
- Thuý Kiều hẳn không thể quên nỗi nhục hôm ấy, theo đó thì tội của Hoạn Thư đáng chết một trăm lần..
- Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư.
- Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn Thư sẽ "thịt nát xương tan"..
- Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận.
- Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng.
- Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là "tiểu thư", cẩn thận báo cho mụ ta biết về "luật nhân quả".
- Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng "Bề ngoài thơn thớt nói cười Mà trong nham hiểm giết người không dao":.
- Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca..
- Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn.
- Nếu quả thật đã "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy.
- Không những khẳng định "ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà", Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã "làm ơn".
- với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, Kiều vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa..
- Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:.
- Ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư.
- Và Kiều đã gặp Thúc Sinh "cũng nòi thư hương", là con rể của quan thượng thư, một con người phong tình "quen thói bốc rời".
- Lúc đầu chỉ là "trăng gió", nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành "đá vàng".
- Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy làm vợ lẽ: "Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai".
- Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các "giữ chùa, chép kinh", thoát khỏi kiếp tôi đòi.
- nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn "nặng lòng".
- Có thể chê trách Thúc Sinh này nọ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều hoàn lương.
- Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm.
- Thúc Sinh là "người cũ", là "cố nhân ".
- Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: "nghĩa nặng nghìn non.
- cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh rất giàu ân nghĩa thủy chung:.
- Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật "hậu", khẳng định cái nghĩa đối với "cố nhân"trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:.
- "Vác đòng chật đất, tinh kỳ rợp sân", Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run", mồ hôi toát ra "ướt đẫm ", không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa "mừng", vừa "sợ":.
- Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người "chiến thắng".
- Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ:.
- "gươm tuốt nắp ra", Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu".
- Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút "ân tình ".
- Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: "Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương".
- Tuy "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư "kính yêu ''Thúy Kiều.
- Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng:.
- Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lý, vừa có tình.
- Không thể là "người nhỏ nhen", Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:.
- Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm! Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lý, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo, Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung..
- Người đầu tiên mà Thúy Kiều muốn báo đáp là Thúc Sinh.
- Người đã cứu Kiều ra khỏi thanh lâu, người đã rất mực yêu thương, đối xử với Thúy Kiều như một người vợ đích thực."Lâm Tri chàng còn nhớ không?"Lời Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh mới chân thành, tha thiết làm sao.
- để nói về sự biết ơn đối với Thúc Sinh đã thể hiện được tấm lòng chân thành ấy đối với "cố nhân"..
- Tuy là đối tượng được báo đáp nhưng Thúc Sinh lại tỏ ra rất sợ hãi, lo lắng:.
- vừa thể hiện được được cái xám ngắt của sắc mặt, vừa thể hiện được cái run rẩy của đôi chân Thúc Sinh.Khi nghe Thúy Kiều kết tội Hoạn Thư thì trên mặt Thúc Sinh đã "ướt đầm mồ hôi".Dù chỉ được phác họa bằng vài nét tả xong Nguyễn Du cũng đã khác họa thành công tính cách,con người của Thúc Sinh: hèn nhát, nhu nhược, thiếu bản lĩnh..
- Điển hình của màn báo oán này là đối với nhân vật Hoạn Thư.Đối với Hoạn Thư,ngay từ lúc nhìn thấy, Thúy Kiều đã lớn tiếng kết tội:.
- "Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư".
- Tiếng kết tội này không chỉ rõ ràng,đanh thép mà còn thể hiện được sự phẫn nộ của Thúy Kiều đối với Hoạn Thư.Không chỉ vậy, khi đối thoại với Hoạn Thư, Thúy Kiều cũng nói bằng giọng điệu đầy châm chọc:.
- là cách nói đầy trào phúng của Thúy Kiều dành cho Hoạn Thư nhằm chế giễu con người sang trọng, quyền quý như Hoạn Thư mà cũng có ngày hôm nay.
- Với Thúc Sinh lời nói chân thành da diết bao nhiêu thì với Hoạn Thư giọng nói đanh thép,phẫn nộ bấy nhiêu.Cuối cùng là sự kết án rõ ràng "Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".
- như định sẵn một bản án dành cho Hoạn Thư.
- Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là con người đầy khôn ngoan, lọc lõi sự đời.Khi bị áp giải đến "phiên tòa".
- Trước hết, lí lẽ là Hoạn Thư đưa ra đó là mình "chút phận đàn bà".
- Nếu sự biện minh này bước đầu chạm vào tấm lòng vị tha của Thúy Kiều thì câu thơ sau lại khiến Kiều có cảm giác mình mang ơn Hoạn Thư:.
- Hoạn Thư đã kể lể sự "nhân ái".
- Hoạn Thư kể ra nỗi khổ khi sống cảnh chung chồng "Chồng chung ai dễ ai chiều cho ai".
- Có thể nói Hoạn Thư là con người thông minh, lý lẽ sắc bén, biết cách đánh vào tâm lý người đối diện