« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của Đặng Trần Côn


Tóm tắt Xem thử

- PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ CỦA ĐẶNG TRẦN CÔN.
- Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của Đặng Trần Côn mà Học247 giới thiệu dưới đây sẽ giúp các em cảm nhận được nỗi lòng của người chinh phụ khi trông ngóng chồng đang chinh chiến ở miền viễn xứ.
- Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung đoạn trích)..
- 16 câu đầu: Tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ..
- Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ.
- Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ.
- Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước - loài chim khách báo tin lành..
- Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san sẻ nỗi lòng cùng nàng..
- Thực tế: “Đèn chẳng biết”, “lòng thiếp riêng bi thiết”: Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ..
- So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn.
- Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người..
- Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”..
- Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải..
- Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh..
- “Gà gáy”, “sương”, “hòe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả - Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật..
- Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh.
- Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian..
- “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt..
- Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ e.
- Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ - Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:.
- Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ..
- Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người..
- Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ..
- Ước muốn của người chinh phụ..
- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng).
- Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng..
- Nỗi nhớ của người chinh phụ.
- Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi, đau đáu trong lòng người chinh phụ.
- Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu..
- Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa..
- Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề..
- Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ.
- Liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa: Vũ Nương.
- Qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi hạnh phúc người phụ nữ..
- Đề bài: Phân tích đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” của Đặng Trần Côn Gợi ý làm bài:.
- Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến.
- Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong, và có cả những khao khát hạnh phúc của người chinh phụ..
- Khi thời đại đưa cho ông một đề tài quen thuộc “hiện thực chiến tranh”, bằng cảm hứng nhân đạo của mình, Đặng Trần Côn đã chiếu ngòi bút của mình xuống những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa, tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua khúc tự tình trường thiên “Chinh phụ ngâm”.
- Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, qua nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tác giả đã đã để cho người đọc cảm nhận nỗi đau thương trong chiến tranh của cả hai phía người ra trân và người ở lại.
- Nếu ở nơi chiến địa, chinh phu đang từng ngày từng giờ đối mặt với cái chết thì chinh phụ nơi quê nhà cũng đang mòn mỏi chờ đợi trong vô vọng, và chìm đắm trong muộn phiền.
- Ba sáu câu thơ trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như tích tụ nỗi đau, nỗi nhớ thương và niềm khao khát hạnh phúc lứa ở tầng sâu nhất của tác phẩm..
- Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:.
- Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn.
- Những thao tác trữ tình ấy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ.
- Ngọn đèn vừa chứng kiến vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng.
- Khi đối diện với ngọn đèn là người phụ nữ đáng thương ấy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi chải nỗi đau của chính mình.
- Nếu ngọn đèn.
- không tắt đồng hành với người phụ nữ trong ca dao thắp lên nỗi nhớ thương:.
- Ngọn đèn trong đêm với Thúy Kiều đã trở thành nhân chứng của nỗi đau của người con gái tài sắc:.
- Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải.
- Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất.
- Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi “bi thiết” không thể nói lên lời, là nỗi “buồn rầu” đến não nề, đến thương cảm.
- Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:.
- Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc suốt” đêm thâu như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình.
- Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế dáng điệu võ vàng của người chinh phụ, tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của người chồng..
- Chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó.
- Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy.
- Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để.
- Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ.
- Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều những nỗi lo sợ, lo lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa được nỗi niềm bản thân mà còn như chìm sâu hơn vào nỗi bi thương xót xa.
- Nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đã đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hành cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh.
- Sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy..
- Người chinh phụ đã gom hết những yêu nhớ, thương xót và cả lòng thủy chung của mình vào gió đông, nhờ cơn gió mùa xuân ấm áp gửi tâm tư thầm kín của mình đến non Yên..
- Những hình ảnh có tính tượng trưng ước lệ như “gió đông”, “non Yên”, “trời thăm thẳm” vừa gợi ra không gian rộng lớn vô tận nói lên khoảng cách xa xôi giữa chinh phu và chinh phụ vừa biểu đạt được tấm lòng chân thành, nỗi nhớ nhung vô hạn của người vợ nơi quê nhà..
- Phải chăng ngọn gió đông đánh thức tâm hồn chinh phụ cũng chính là ngọn gió xuân đánh thức giấc mộng ái ân khuê phòng trong “xuân tứ” của nhà thơ Lí Bạch:.
- Nhưng nỗi thương nhớ của người chinh phụ người ta còn thấy được cả dư vị của nỗi đau, sự ngậm ngùi, xót xa:.
- Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
- Hai từ láy “thăm thẳm” và “đau đáu” đã biểu đạt trực tiếp sắc thái của nỗi nhớ thương ấy của người chinh phụ.
- Nếu hai từ “thăm thẳm” gợi nên trường độ của nỗi nhớ nhung trải dài dằng dặc, triền miên trong không gian thì độ sâu của nỗi nhớ được thể hiện qua từ “đau đáu”.
- Hình ảnh đường lên trời mù mịt, xa xăm cũng giống như bi kịch nỗi nhớ mong của nàng chẳng biết đâu là bến bờ, chẳng biết đến khi nào người chồng trở về để kết thúc cái bi kịch ấy..
- Câu thơ như một tấm bản lề khép lại nỗi nhớ nhung sầu muộn dẫn người đọc đến với nỗi sầu muộn của người chinh phụ trong câu thơ sau.
- Trong bức tranh mùa đông được gợi mở, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh bất ngờ để cực tả nỗi sầu muộn và cảm giác lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:.
- Nỗi đau đớn sầu muộn ấy khi thì nặng nề như búa bổ, khi thì nặng nề như cưa xẻ còn “gốc liễu”, “cảnh ngô ấy phải chăng chính là hiện thân của người phụ nữ đang mòn mỏi chờ chồng.
- Mùa đông của thiên nhiên nhiên giờ đây đã hóa thành mùa đông của cuộc đời người chinh phụ..
- Tiếng chim gù trong bụi cây sương phủ, tiếng côn trùng nỉ non não nề trong đêm sương phải chăng nhà thơ muốn bật lên tiếng lòng tê buốt lạnh giá của người chinh phụ? Phải chăng không chỉ là tiếng sâu tường bên cạnh “vẳng” ra, tiếng chuông chùa từ xa “nện” lại mà đó còn là những cơn sóng dữ dội, tha thiết và nhức nhối đang cuộn lên trong lòng người phụ nữ ấy? Tất cả những âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh.
- Với sự thành công của biện pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của thi ca cổ điển nhà thơ không chỉ tô đậm ấn tượng lạnh lẽo của bức tranh mùa đông mà còn đang phơi bày thế giới nội tâm lạnh giá của người chinh phụ.
- Nếu không phải là một ngòi bút khắc họa tâm lí sắc sảo chắc chắn sẽ không thể miêu tả tâm trạng của người chinh phụ sâu sắc và tinh tế đến thế..
- Tưởng chừng như người chinh phụ sẽ mãi chìm đắm trong nỗi sầu muộn ấy, nhưng trong giây lát nàng đã đến với những khao khát của hạnh phúc lứa đôi qua bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy của thiên nhiên.
- Bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy ấy đã được nhà thơ khắc họa bằng thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa.
- Phải chăng chính sự giao hòa của thiên nhiên, tạo vật đã đánh thức niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi thầm kín trong lòng chinh phụ bấy lâu? Nhưng phải chăng cũng bởi thế mà nỗi đau về sự lẻ loi lại quay lại với nàng mà còn như khơi sâu thêm hơn nữa? Đến thiên nhiên vô tri vô giác còn có cảm giác hạnh phúc lứa đôi, còn nàng, nàng chỉ có một mình với một tấm lòng thủy chung chờ đợi chồng nơi khuê phòng này, chờ những hạnh phúc ái ân sẽ trở về.
- Cùng với hình ảnh, âm điệu của lời thơ cũng trở nên tha thiết, nồng nàn như những con sóng của niềm khao khát đang dâng lên trong lòng người chinh phụ.
- Những hình ảnh mĩ lệ của hoa lồng nguyệt và nguyệt lồng hoa hết sức mĩ lệ đã thể hiện hết sức tế nhị những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người..
- Chính sự kết hợp của ngôn ngữ giàu về “thể chất” của Nguyễn Gia Thiều với cái linh hồn ngôn ngữ của Đoàn Thị Điểm đã làm cho ngôn ngữ bài thơ truyền tải được mọi cung bậc cảm xúc tinh tế nhất trong diễn biến tâm trạng của người chinh phụ.
- Những vần thơ khép lại nhưng dường như nỗi đau của người chinh phụ vẫn còn đó