« Home « Kết quả tìm kiếm

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CHO CÁC AO NUÔI TÔM HE CHÂN TRẮNG TẠI THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA


Tóm tắt Xem thử

- PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CHO CÁC AO NUÔI TÔM HE CHÂN TRẮNG TẠI THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA.
- Hiệu quả kỹ thuật, đường biên ngẫu nhiên, màng dữ liệu, tôm he chân trắng Keywords:.
- Nghiên cứu phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các ao nuôi tôm he chân trắng thương phẩm tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA) theo mô hình tối thiểu hóa đầu vào và phương pháp đường biên ngẫu nhiên (SPF).
- Kết quả chỉ ra rằng hệ số hiệu quả kỹ thuật của các hộ nuôi tôm the ̉ chân trắng tại thi xa.
- Theo phương pháp DEA_VRS, hệ số hiệu quả kỹ thuật biến động từ 0,001 đến 1,000 với giá trị trung bình là 0,7192.
- Các yếu tố lao động, con giống, chi phí biến đổi khác có ảnh hưởng tới sản lượng, vì vậy người nông dân cần sử dụng cân đối và hợp lý các yếu tố này vào sản xuất nuôi tôm, đây là một dấu hiệu khả quan để tìm ra những giải pháp và hướng phát triển bền vững cho nghề nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa..
- Theo lý thuyết kinh tế, sự phát triển quá nhanh và tự phát của một ngành thường dẫn đến việc sử dụng không hiệu quả các yếu tố đầu vào – từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi, của ngành và môi trường trong tương lai gần.
- Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc sử dụng tiết kiệm, hợp lý các yếu tố đầu vào – đặc biệt là các đầu vào như đất, mặt nước – đóng vai trò quyết định cho việc phát triển bền vững trong dài hạn..
- Chính vì vậy, phân tích hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào là một nhu cầu bức thiết và phải thực hiện ngay nhằm giúp các nhà quản lý khuyến cáo chủ ao nuôi và đề ra các biện pháp quản lí nhằm phát triển nghề nuôi bền vững của tỉnh Khánh Hòa..
- Trong điều kiện dân số thế giới gia tăng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, việc phân tích hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào (còn được gọi là hiệu quả kỹ thuật – technical efficiency) để tìm cách gia tăng sản lượng đầu ra mà không phải sử dụng nhiều hơn các yếu tố đầu vào đang là một chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách trên thế giới quan tâm.
- Do vậy, việc phân tích hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào của các đơn vị sản xuất đề xuất các chính sách phát triển bền vững đã được áp dụng rất rộng rãi trong ngành thủy sản.
- (2011) cho các hộ đánh bắt thủy sản ven bờ Nigeria với 110 mẫu, đã chỉ ra rằng hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào trung bình là 0,83.
- Nghiên cứu trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tiêu biểu là: Sharma và Lueng (1998) chỉ ra rằng hiệu quả kỷ thuật trung bình của cá Chép ở Nepal là 0,77.
- chỉ ra hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào trung bình của cá Chép ở Peninsula, Malaysia là 42%..
- Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam, đã có một số ít tác giả áp dụng phương pháp DEA trong nghiên cứu hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào như Au (2009) và Huy (2009).
- Tuy nhiên ở mức độ luận văn thạc sĩ, các tác giả này chỉ mới dừng lại ở các phân tích sơ khởi về hiệu quả của các hộ nuôi.
- Au (2009) sử dụng mô hình phân tích màng dữ liệu (DEA) đánh giá hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào tối thiểu hóa đầu vào trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất đối với các hộ nuôi xem tôm sú – cá kình ở phá Tam Giang.
- chỉ ra rằng chỉ số hiệu quả kỷ thuật khá cao, bình quân 0,91 với nguyên nhân chính của phi hiệu quả là do qui mô không hợp lý.
- Huy (2009) sử dụng mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào trong trường hợp quy mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất với hai biến đầu ra và năm biến đầu vào để đánh giá hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào cho các ao nuôi tôm sú thương phẩm tại tỉnh Khánh Hòa.
- chỉ ra rằng tỷ lệ số ao nuôi tôm sú thương phẩm tại Cam Ranh đạt hiệu quả cao nhất với 42%.
- Mục tiêu của nghiên cứu này là: phân tích hiệu quả kỹ thuật (technical efficiency) bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA) và phương pháp đường bao ngẫu nhiên (SPF) để đề xuất một số khuyến nghị cho chính quyền và chủ nông hộ nhằm phát triển nghề nuôi bền vững..
- Trong thực tế, hiệu quả kỹ thuật của ao nuôi tôm he chân trắng ngoài các yếu tố trên còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố đầu vào khác (diện tích ao, tỷ lệ diện tích ao lắng/ao nuôi, tỷ lệ thay nước, quạt nước, trình độ kỹ thuật viên, thuốc, hóa chất)….
- hay biến số đầu ra (như lợi nhuận, tỉ suất lợi nhuận…) để phân tích ảnh hưởng hay hiệu quả đầu vào đối với đầu ra.
- Do giới hạn về điều kiện dữ liệu và để đơn giản, nghiên cứu này đã sử dụng 5 biến số này, mặc dù việc chọn các yếu tố này mang tính chủ quan, chỉ là các yếu tố quyết định chính chi phí đầu vào, chưa phải hoàn toàn quyết định kết quả đầu ra: tỷ lệ sống, năng suất, lợi nhuận..
- Đầu vào sản xuất Laodong = lao động (giờ/ha) x 1.
- Để đo lường hiệu quả trong sản xuất, việc xác định hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency-TE), hiệu quả phân phối nguồn lực sản xuất (Allocative Efficiency-AE) và hiệu quả sử dụng chi phí sản xuất (Cost Efficiency-CE) là vấn đề đáng quan tâm..
- Hiệu quả kỹ thuật (Technical Effiency) là khả năng của một ao nuôi để có được sản lượng tối đa từ một tập hợp các yếu tố đầu vào cho trước hoặc có được tối thiểu hóa đầu vào từ đầu ra cho trước..
- Việc ước lượng hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất theo phương pháp DEA được thực hiện trên.
- Phương pháp SPF cho phép đánh giá hiệu quả kỹ thuật và giải quyết một số vấn đề liên quan đến các mô hình định lượng của hàm biên, có tính đến các nhân tố đi kèm ảnh hưởng ngẫu nhiên đến quá trình sản xuất, do đó kết quả của SPF cũng mang tính ngẫu nhiên.
- X i là véc tơ yếu tố đầu vào (1*K, với K là số lượng yếu tố đầu vào) của đơn vị sản xuất thứ i.
- Trong đó, U i là phần biến ngẫu nhiên không âm liên quan đến tính phi hiệu quả trong sản xuất và được giả định là có phân phối độc lập, một phía và có dạng N.
- Nếu như U i bằng không thì đơn vị sản xuất thứ i đạt hiệu quả kỹ thuật 100% và nằm trên đường biên giới hạn sản xuất..
- Nếu như U i lớn hơn không thì đơn vị sản xuất thứ i đang sử dụng lãng phí các yếu tố đầu vào – còn gọi là phi hiệu quả.
- (2) Trong đó: Z i là véc tơ (1* p), các nhân tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của đơn vị sản xuất gồm có: các yếu tố vi mô như đặc điểm riêng của đơn vị sản xuất (quy mô, kinh nghiệm, sự phối hợp các đầu vào.
- các yếu tố vĩ mô như thể chế, chính sách, sự hỗ trợ của chính phủ (quy hoạch, vốn vay, tập huấn kinh nghiệm.
- Hiệu quả kỹ thuật của đơn vị sản xuất kinh doanh thứ i chính là:.
- Lúc đó mô hình (1) sẽ cho biết mức sản lượng lớn nhất có thể đạt tới với các đầu vào cho trước.
- Chỉ số hiệu quả kỹ thuật của mỗi đơn vị sản xuất ở (3) chính bằng mức sản lượng quan sát (thực tế) chia cho mức sản lượng lớn nhất có thể đạt tới.
- Việc ước lượng hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất theo phương pháp SPF được thực hiện trên phần mềm FRONTIER phiên bản.
- Hệ số (DEA, SPF) lý tưởng nhất là 1, có nghĩa là ao nuôi sử dụng hợp lý các yếu tố đầu vào..
- Các yếu tố đầu vào (lao động, con giống, thức ăn, chi phí biến đổi khác) của các ao nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa có sự chênh lớn (độ lệch chuẩn lớn, giá trị max và min lệch gấp nhiều lần giá trị trung bình).
- Kết quả này cho thấy một số ao nuôi sử dụng tốt các yếu tố đầu vào, một số sử dụng lãng phí..
- Sản lượng của các ao nuôi chênh lệch lớn cho thấy dựa trên các yếu tố đầu vào có sẵn, một số ao nuôi đã tối đa hóa đầu ra, một số chưa làm tốt, có thể do tính kinh tế nhờ qui mô, kinh nghiệm….
- 3.2 Hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp SPF Để lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, nghiên cứu đã tiến hành ước lượng hàm sản xuất bằng phương pháp bình phương bé nhất thông thường (OLS) cho nghề nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
- Trong 4 yếu tố đầu vào truyền thống của nghề nuôi, phương pháp ước lượng OLS cho thấy chỉ có 2 biến đầu vào là Thức ăn và Chi phí biến đổi khác có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến sản lượng đầu ra/ha (năng suất) trong nghề nuôi tôm he chân trắng ở thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
- Hai đầu vào còn lại là Lao động và con giống không có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê – đặc biệt yếu tố Lao động còn ảnh hưởng ngược chiều, điều này là chưa phù hợp với lý thuyết sản xuất thông thường.
- Kết quả phân tích hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào bằng phương pháp SPF được trình bày ở Bảng 3..
- Bảng 3 cho thấy hệ số hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào biến thiên trong khoảng với hệ số hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào trung bình xấp xỉ 0,6867.
- Khi  2 khác 0 đáng kể, nghĩa là cho thấy có sự hiện diện của hiệu ứng hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào..
- là phương sai của thành phần không hiệu quả (tham số bất đối xứng).
- u 2 ) được sử dụng để nhận dạng tác động có hệ thống đến quá trình sản xuất bởi toàn bộ các nhân tố làm giảm hiệu quả của mô hình..
- Bảng 3: Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của nghề nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
- Hệ số hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.
- Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào trung bình 0,6867.
- Phân nhóm hệ số hiệu quả Số hộ Tần số.
- Kết quả TE = 0,6867 cho thấy nghề nuôi tôm he chân trắng ở Ninh Hòa đang tương đối lãng phí các yếu tố đầu vào của sản xuất.
- Nếu các yếu tố đầu vào giữ nguyên không đổi, với điều kiện công nghệ ở hiện tại, sản lượng đầu ra/ha bình quân trong trường hợp lý tưởng nhất có thể tăng được tới ((1/0,6867.
- Hay nếu đầu ra giữ nguyên không đổi, bình quân, nghề nuôi này có thể tiết kiệm đầu vào tối đa là 31,33%.
- đầu tư/ha trong mỗi vụ nuôi tôm là rất lớn với chi phí biến đổi bình quân là hơn 200 triệu đồng/ha thì việc nghiên cứu để có thể tiết kiệm chi phí đầu vào đến khoảng 30% là rất có ý nghĩa – đặc biệt với thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam là khoảng 1.000 USD/năm, khoảng 21 triệu đồng/năm.
- Hiệu quả kỹ thuật.
- Hình 1: Phân phối hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của các hộ nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa.
- Một vấn đề rất quan trọng nữa đối với việc tiết kiệm yếu tố đầu vào với nghề nuôi này đó là vấn đề ô nhiễm môi trường.
- Việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào trong nuôi tôm sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự bền vững của nghề nuôi này trong dài hạn..
- Phân nhóm hệ số hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của các hộ nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa cho thấy, hệ số hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào nhỏ hơn 0,2 có 3 hộ, chiếm tỷ lệ 1,21%.
- Như vậy, trong nghề nuôi tôm he chân trắng tại Ninh Hòa, khoảng 30% số hộ có hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào tương đối tốt (từ 80% trở lên), 45% số hộ mới ở mức trung bình (60.
- còn lại khoảng 25% số hộ có hiệu quả thấp.
- Các chính sách khuyến nông của Nhà nước trước tiên nên tập trung cho các hộ có hiệu quả thấp, tiếp theo là đến các hộ có hiệu quả ở mức trung bình..
- 3.3 Hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp DEA Kết quả nghiên cứu hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào theo phương pháp DEA–VRS của các Ao nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa được trình bày như ở Bảng 4..
- Bảng 4: Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của nghề nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa theo phương pháp DEA.
- Tỷ lệ các Ao đạt hiệu quả sử.
- dụng các yếu tố đầu vào.
- Hệ số hiệu quả sử dụng các.
- yếu tố đầu vào (θ).
- Bảng 4 cho thấy, hệ số hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của các ao nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa trong trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (VRS) biến động từ 0,001 đến 1,00 với giá trị trung bình là 0,7192 và có tới 31,85% số Ao nuôi tôm he chân trắng đạt hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào..
- Thực hiện kiểm định thống kê để so sánh sự khác biệt giữa hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của phương pháp SPF và hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của phương pháp DEA cho thấy p-value là 0,09, vậy nên, hai phương pháp ước lượng cho giá trị trung bình về hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào là không khác biệt đủ ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%..
- Nghiên cứu cho thấy 3 yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong nghề nuôi tôm he chân trắng tại Ninh Hòa là thức ăn, con giống và các chi phí biến đổi khác, trong đó yếu tố thức ăn có tầm quan trọng đặc biệt đối với sản lượng đầu ra.
- Như vậy, công nghệ nuôi tôm he chân trắng tại Ninh Hòa hiện đang là công nghệ thâm dụng yếu tố thức ăn trong sản xuất.
- Vì vậy, nghiên cứu để sử dụng tiết kiệm các yếu tố đầu vào trong nghề nuôi tôm trở thành vấn đề quan trọng cả trong ngắn và dài hạn để hướng tới phát triển nghề nuôi tôm bền vững.
- Kết quả tính toán bằng cả phương pháp SPF và DEA cho thấy hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào của nghề nuôi tôm ở Ninh Hòa đạt khoảng 70%.
- Nghĩa là, trong trường hợp tối ưu, với công nghệ sản xuất hiện tại, chúng ta có thể tiết kiệm 30% các yếu tố đầu vào mà đầu ra vẫn giữ nguyên không đổi, hoặc là, với đầu vào không đổi chúng ta có thể gia tăng đầu ra tới hơn 40%.
- Kết quả phân nhóm về hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho thấy khoảng 30% số hộ có hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào tương đối tốt (từ 80% trở lên), 45% số hộ mới ở mức trung bình (60.
- Nhà nước trước tiên nên tập trung cho các hộ có hiệu quả thấp, tiếp theo là đến các hộ có hiệu quả ở mức trung bình..
- Nghiên cứu sử dụng hai phương pháp SPF và DEA (VRS) đánh giá hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa..
- Kết quả cho thấy rằng hệ số hiệu quả kỹ thuật của các hô ̣ nuôi tôm thẻ chân trắng ta ̣i thi ̣ xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa theo phương pháp SPF biến động từ với giá trị trung bình là 0,6867..
- Hệ số hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp DEA_VRS biến động từ 0,001 đến 1,000 với giá trị trung bình là 0,7192.
- Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các ao nuôi cần giảm đi lượng các yếu tố đầu vào lãng phí để góp phần giúp cho ao nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật, giúp nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro..
- Hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa bình quân là 0,7, tương đồng với nghiên cứu Sharma và Lueng (1998) chỉ ra rằng hiệu quả kỹ thuật trung bình của cá Chép ở Nepal là 0,77, thấp hơn nghiên cứu của Dawang và ctv.
- (2011) chỉ ra rằng hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào trung bình cho các hộ đánh bắt thủy sản ven bờ Nigeria là 0,83, nghiên cứu của Âu (2009) chỉ ra hiệu quả kỹ thuật các ao nuôi tại phá Tam Giang là 0,91.
- nhưng lại cao hơn nghiên cứu của Iinuma, Sharma và Lueng (1999) chỉ ra hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào trung bình của cá Chép ở Peninsula, Malaysia là 0,42.
- Rất cần thiết thu thập và phân tích các yếu tố về khía cạnh sinh học, kinh tế, xã hội của tôm he cân trắng trong quá khứ cũng như hiện tại của vùng nuôi..
- Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng hầu hết các ao nuôi tôm he chân trắng tại thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa chưa đạt được hiệu quả kỹ thuật..
- Chính vì thế, các nhà quản lý, nhà khoa học và các tổ chuyên môn, đặc biệt là trung tâm Khuyến nông có thể sử dụng thông tin này để khuyến cáo người nuôi để giúp người nuôi giảm các yếu tố đầu vào lãng phí để góp phần giúp cho ao nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật, giúp nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro..
- Đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước thay đổi chính sách quản lý cũng như hỗ trợ người nuôi trong việc thiết kế, tổ chức, chuyển giao công nghệ và phương pháp sản xuất để đạt hiệu quả.
- Bên cạnh đó, con giống, thức ăn, chi phí biến đổi khác là các yếu tố đầu vào cần lưu ý trong việc giúp ao nuôi tôm he chân trắng đạt được sản lượng cao..
- Nhìn chung, cả hai phương pháp đánh giá hiệu quả kỹ thuật đều có ưu nhược điểm riêng.
- Phương pháp SPF đánh giá hiệu quả kỹ thuật có biên độ dao động hẹp, ít phân tầng, có hiệu quả kỹ thuật trung bình cao nhưng không có hộ nuôi nào có hiệu quả tối đa.
- Ngược lại phương pháp DEA (VRS) lại có biên độ hiệu quả kỹ thuật dao động rộng, phân thành nhiều tầng, hiệu quả kỹ thuật trung bình thấp hơn phương pháp SPF nhưng lại đánh giá được những hộ có hiệu quả kỹ thuật tối đa.
- Trong nghiên cứu này chỉ mới sử dụng 5 biến số (lao động, con giống, thức ăn, chi phí biến đổi khác, và sản lượng) làm biến số cho nghiên cứu, trong khi có nhiều biến số đầu vào quan trọng khác (như diện tích ao, tỷ lệ diện tích ao lắng/ao nuôi, tỷ lệ thay nước, quạt nước, trình độ kỹ thuật viên, thuốc, hóa chất.
- Bên cạnh đó, việc phân tích lãng phí yếu tố đầu vào sản xuất chưa rõ lãng phí thế nào, biến số nào, cần điều chỉnh thế nào, nguyên do là nội dung của bài báo này chưa sâu, do đó sự giải thích là có giới hạn.
- Trong nghiên cứu tiếp theo, một số biến khác sẽ được bổ sung vào nghiên cứu, ví dụ như địa điểm và môi trường nước, nghiên cứu cũng phân tích sâu thêm mức độ lãng phí của từng yếu tố để có giải pháp phù hợp.