« Home « Kết quả tìm kiếm

Phát triển kinh tế hiện nay với vấn đề thực hiện công bằng xã hội


Tóm tắt Xem thử

- PHÁT TRIỂN KINH TẾ HIỆN NAY VỚI VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI.
- Từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, "phát triển kinh tế bền vững".
- Cội nguồn của sự xuất hiện vấn đề và ngày càng trở nên bức thiết mang tính toàn cầu là ở chỗ nó phản ánh sự quan ngại đối với một số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, tạo bước đi vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu nhập hiện tại, mà không chú ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển đó đến môi trường sinh thái (tàn phá rừng, sa mạc hóa.
- Một là, PTKTBV là xu hướng phát triển phù hợp với phát triển hiện đại, bảo đảm sự hài hoà giữa kinh tế - xã hội - môi trường.
- Nhiều quốc gia đã không thành công khi quá chú trọng về mặt lượng trong tăng trưởng kinh tế.
- Khi các quốc gia chú trọng nhiều đến tăng trưởng kinh tế về mặt lượng thì các thước đo đánh giá chủ yếu thông qua GDP hoặc GNP và thu nhập đầu người của một quốc gia.
- Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng vẫn ở trong tình cảnh tồi tệ nếu xét ở các góc độ như trình độ học vấn, sức khỏe, tuổi thọ và dinh dưỡng trung bình của người dân.
- Chưa kể các tổn hại về môi trường gây ra bởi quá trình tăng trưởng kinh tế làm ảnh hưởng đến điều kiện sống trước mắt và lâu dài của người dân.
- Nếu như Hàn Quốc gắn tăng trưởng với công bằng xã hội thì Brazin ngược lại, chú trọng đến tập trung phát triển doanh nghiệp quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn, các chính sách xã hội ít quan tâm đến dân nghèo.
- Chính vì vậy, mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm nhưng họ không giải quyết được bất bình đẳng và chính điều này lại là nguyên nhân của sự chững lại trong tăng trưởng, thậm chí có nguy cơ khủng hoảng.
- Còn Hàn Quốc lại là quốc gia có sự bất bình đẳng ít nhất và giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài..
- Năm 1996, Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) đã khuyến cáo 5 loại tăng trưởng xấu, bao gồm:.
- (1) Tăng trưởng không việc làm.
- Đó là tăng trưởng kinh tế song không mở rộng những cơ hội tạo thêm việc làm hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập rất thấp với những.
- (2) Tăng trưởng không lương tâm.
- Đó là tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu đem lại lợi ích cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng..
- (3) Tăng trưởng không có tiếng nói, tức là tăng trưởng kinh tế không kèm theo việc mở rộng nền dân chủ hay là việc trao quyền lực cho dân, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn vào đời sống xã hội..
- (4) Tăng trưởng không gốc rễ, là sự tăng trưởng khiến cho nền văn hóa con người trở nên khô héo..
- (5) Tăng trưởng không tương lai, là tăng trưởng trong đó thế hệ hiện nay phung phí những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến.
- Như vậy, trên thực tế, sự tăng trưởng của nhiều quốc gia không những không làm cho người dân được hưởng mà ngược lại còn gây ảnh hưởng xấu đến tính bền vững của sự phát triển.
- Loài người đã và đang trả giá cho sự tăng trưởng nhanh và phiến diện, tăng trưởng không đi liền với phát triển.
- Chính bất công xã hội lại trở thành lực cản, phá hoại tăng trưởng các nền kinh tế đó..
- Hai là, sự tăng trưởng nhanh chóng vì những động cơ, lợi ích cục bộ đã đưa tới tình trạng tàn phá môi trường, môi sinh ngày càng nghiêm trọng.
- Hiện nay, ở nhiều quốc gia đi cùng với tăng trưởng kinh tế là sự băng hoại của xã hội và con người, sự xuống cấp của đời sống tinh thần đạo đức.
- Một số đảng cầm quyền và chính phủ của họ từng đạt nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế song đã phải ra đi.
- Sự giàu có về của cải, vật chất không đem lại ổn định về chính trị, đó là hậu quả của tăng trưởng phiến diện, tăng trưởng không đi đôi với phát triển.
- Vấn đề đặt ra là phải tăng trưởng như thế nào, có nghĩa là tăng trưởng phải bảo đảm bền vững, có thể đảm bảo cho các nước thực hiện được mục tiêu đặt ra cho mình một cách hiệu quả nhất..
- Bởi vậy, tiêu chí để đánh giá một nền kinh tế được coi là tăng trưởng có chất lượng hay không chỉ khi đảm bảo được 2 yếu tố sau:.
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng cao cần được duy trì trong dài hạn..
- Thứ hai, tăng trưởng đó phải đóng góp trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống..
- Từ đó có nhiều quan niệm khác nhau nhưng có một điểm chung đó là sự tiến bộ của một đất nước phải được đánh giá trên ba mặt, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và đảm bảo môi trường môi sinh.
- Các nước Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định trong dài hạn là nhờ giải quyết tốt các mặt này, trong khi các nước châu Mỹ Latinh sau giai đoạn tăng trưởng tốc độ cao đầu thập kỷ 80 đã đột ngột dừng lại bởi sự tăng trưởng đó chỉ phiến diện về mặt kinh tế, theo chiều rộng..
- Qua quá trình nhận thức về mặt thực tiễn và lý luận, đến nay nhiều quốc gia lựa chọn Mô hình tăng trưởng dựa vào các tiêu chí về chất lượng tăng trưởng như đã đề cập ở trên.
- Đó là mô hình chú trọng tới cả lượng và chất của quá trình tăng trưởng.
- Tốc độ tăng trưởng cao là tiền đề tối cần thiết để giúp các chính phủ đề ra và thực hiện các chính sách xã hội và môi trường, đã góp phần làm thay đổi cơ cấu xã hội theo hướng mang lại lợi ích cho mọi người.
- Điều đó có nghĩa là tăng trưởng được thực hiện không vì bản thân sự tăng trưởng mà với mục tiêu lớn nhất và cuối cùng là lợi nhuận tối đa.
- Trái lại, tăng trưởng nhanh góp phần quan trọng nhằm tăng cường các lợi ích xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, phát triển giáo dục, cải thiện chất lượng cuộc sống, đến lượt mình, những yếu tố đó đã trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn nữa.
- Rõ ràng, đi đôi với tăng trưởng kinh tế nhanh thì chất lượng tăng trưởng có vai trò cực kỳ quan trọng, làm nền tảng cho quá trình phát triển bền vững của mỗi dân tộc..
- Phải nói rằng nếu không có tăng trưởng kinh tế thì không thể nâng cao được mức sống cho mọi người dân, tức là không có tiến bộ và công bằng xã hội.
- Nhưng tăng trưởng không thôi thì chưa đủ vì nó mới chỉ phản ánh được sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, hay cụ thể hơn, tăng trưởng kinh tế là do tăng thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân bình quân đầu người.
- Muốn có tăng trưởng trong một quá trình dài thì phải cần có phát triển kinh tế, bên cạnh tăng thu nhập quốc dân đầu người còn bao hàm sự thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ hiện đại.
- Nếu như tăng trưởng kinh tế thể hiện sự tăng lên của sản lượng giữa hai thời điểm khác nhau thì phát triển là quá trình biến đổi trong thời gian dài và do những nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định.
- Tăng trưởng kinh tế chính là phương tiện cơ bản để có thể đạt được phát triển, nhưng bản thân nó chính là một đại lượng không hoàn hảo của sự tiến bộ.
- Như vậy, tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển.
- Muốn có sự phát triển thì quá trình đó phải đảm bảo tính cân đối, tính hiệu quả, phải kết hợp được tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường.
- Từ nhận xét trên cho thấy, quốc gia thành công là quốc gia giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định trong thời gian dài.
- Các mô hình dựa trên quan điểm “Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng”..
- Mọi cố gắng tạo ra bình đẳng đều có thể làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
- Mô hình dựa trên quan điểm “ưu tiên bình đẳng, giải quyết thỏa đáng các vấn đề xã hội, môi trường hơn tăng trưởng”.
- Mô hình có bình đẳng và phát triển lành mạnh trước, tăng trưởng sau được áp dụng rộng rãi trong hệ thống XHCN trước đây.
- Mô hình dựa trên quan điểm “tăng trưởng đi liền với bình đẳng, giải quyết hợp lý các vấn đề xã hội, môi trường”.
- Nó dựa trên quan điểm song song với tăng trưởng là giải quyết bất bình đẳng bằng các chính sách, sự đầu tư hợp lý.
- Tóm lại, theo quan điểm này bên cạnh tăng trưởng thì việc nâng cao chất lượng tăng trưởng luôn được coi trọng..
- Đánh giá về tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Với mô hình kinh tế mới, nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá cao và liên tục.
- Sự tăng trưởng GDP cả nước cao dần từ ngay sau khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế năm và đạt mức cao nhất vào năm 1995 (9,54.
- đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Sau đó, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực năm sự tăng trưởng của nền kinh tế có chậm lại nhưng từ năm 2000 tốc độ tăng trưởng lại tăng trở lại:.
- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế năm 2003 đạt cao nhất trong 6 năm qua, so với các nước trong khu vực Đông Á, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là khá cao và chỉ đứng sau Trung Quốc - khoảng 8%..
- Đây là khu vực luôn có đóng góp lớn nhất vào nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, chiếm tới 53,31% nhịp độ tăng trưởng GDP, tương ứng với 3,86% (trong tổng số 7,24.
- Đứng thứ hai là khu vực dịch vụ, mức tăng trưởng cả năm đạt 6,57.
- Khu vực dịch vụ có mức đóng góp cao thứ hai vào nhịp độ tăng trưởng GDP, đạt 2,68%, tương ứng là 37,02% nhịp độ tăng trưởng (bảng 1)..
- Trái ngược với hai khu vực trên, tốc độ tăng trưởng khu vực nông - lâm nghiệp - thuỷ sản giảm so với năm 2002, do ảnh hưởng của thiên tai dịch bệnh và diễn biến bất lợi của thị.
- Mức đóng góp vào nhịp độ tăng trưởng GDP của khu vực này chỉ đạt 0,7%, tương ứng với 9,7% nhịp độ tăng trưởng (Kinh tế Việt Nam năm 2003, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương)..
- Ngành lâm nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với các năm trước nhưng cũng chỉ mới đạt mức tăng 0,7%.
- Trong khu vực dịch vụ, nhóm ngành khoa học, y tế, giáo dục, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao (7 - 8.
- Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của ngành giáo dục - đào tạo và khoa học có phần giảm xuống so với năm trước, đạt tương ứng 7,8% và 7,1% so với 8,5% và 9,1% của năm 2002.
- Trái lại, y tế là ngành có mức tăng trưởng cao hơn hẳn so với năm trước, 8.
- Văn hoá và thể thao là nhóm có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực dịch vụ (8,8%)..
- Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu GDP theo ngành từ 1986-2007.
- Tốc độ tăng trưởng Cơ cấu.
- Nguồn: Số liệu thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê Đánh giá về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
- Như đã phân tích ở trên, chất lượng tăng trưởng kinh tế được xét trên nhiều mặt.
- Chất lượng tăng trưởng chính là sự tăng trưởng theo chiều sâu, thể hiện ở sự đóng góp vào GDP của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn, tăng tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao động và yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp.
- Nếu như thời kỳ tỷ trọng đóng góp của vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế lần lượt là 69%, 16% và 15% thì đến thời kỳ tỷ trọng đó đã có sự thay đổi đáng kể:.
- tỷ trọng của vốn giảm xuống còn 57,5%, trong khi tỷ trọng của lao động tăng lên là 20% và đặc biệt tỷ trọng của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chiếm 22,5% trong tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Năng suất các nhân tố tổng hợp không bị giới hạn nên việc tăng trưởng theo chiều sâu cũng không bị giới hạn.
- Tuy nhiên, trong nhiều đánh giá và nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học trong và ngoài nước, kể cả chuyên gia của WB đều cho rằng chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn liên tục cao trong các năm.
- Theo một chuyên gia của WB thì hình như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chỉ làm giàu cho một bộ phận nhỏ người dân còn phần lớn vẫn chưa được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế.
- Bởi, nếu xét chất lượng tăng trưởng ở khía cạnh đóng góp của các nhân tố đầu vào đối với GDP thì tốc độ tăng trưởng GDP chủ yếu vẫn dựa vào tiềm lực vốn.
- Và khoa học công nghệ hầu như đóng góp quá ít ỏi đối với tăng trưởng GDP.
- Do hiệu quả của đầu tư chưa cao nên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, song thu nhập của người dân vẫn thấp và phúc lợi công cộng hầu như không được cải thiện là mấy..
- Xem xét tác động lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề xã hội.
- Cùng với việc đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao thì các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng kinh tế đều có những tiến bộ rõ rệt..
- Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là một trong những thành công lớn nhất của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ đầu thập niên 1990 đến nay.
- Nguyên nhân chính của những thành tựu to lớn nêu trên được xác định là tăng trưởng kinh tế cao và ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho xóa đói giảm nghèo.
- Từ thập niên 1990 đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh tế - xã hội.
- tăng trưởng GDP đạt bình quân trên 7,5%/năm.
- Năm 2004, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 38% GDP, bình quân giai đoạn 2001-2004 tăng khoảng 14%/năm, trong đó vốn của khu vực kinh tế nhà nước tăng 13,4%/năm;.
- Từ năm 2002 triển khai thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Việt Nam đã tăng cường việc lồng ghép các mục tiêu của chiến lược vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm..
- Ngoài ra, một chương trình riêng về phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa đã được triển khai thực hiện.
- Mặt khác, độ giãn cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng ngày càng gia tăng.
- Xóa đói giảm nghèo là một trong những nội dung cần thiết để thiết lập sự bình đẳng trong quá trình phát triển kinh tế bền vững cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam..
- Tăng trưởng kinh tế bền vững còn phải gắn với đảm bảo công bằng xã hội.
- quan hệ giữa các thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh tế, mức độ phát triển trí lực khác nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục, khám chữa bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao...Các vấn đề xã hội mà tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đã phân tích ở trên là dần thực hiện, từng bước đạt được công bằng xã hội..
- Trong điều kiện hiện nay, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam còn chưa đáp ứng một cách cao nhất điều kiện vật chất cho việc thực hiện công bằng xã hội.
- Trong đó phải chấp nhận sự đánh đổi của những mục tiêu trong ngắn hạn của phát triển kinh tế với những mục tiêu ngắn hạn khác.
- Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như:.
- Tạo ra những cơ hội như nhau cho tất cả các tầng lớp dân cư và cá nhân phát huy tài năng, tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.