« Home « Kết quả tìm kiếm

PHỤC DỰNG VÀ BẢO TỒN TUỒNG CỔ QUA HƯỚNG KHAI THÁC CÁC KỊCH BẢN TUỒNG HÁN NÔM


Tóm tắt Xem thử

- Nhìn chung, có 1 thể chia lịch sử tuồng thành 2 giai đoạn lớn: tuồng cổ và tuồng hiện đại.
- Tuồng cổ vốn là hình thức diễn xướng phát xuất từ dân gian, dần dần được cố định hoá về mặt phong cách, nghệ thuật biểu diễn và kịch bản.
- Tuồng cổ có phương thức trình diễn đặc thù, nội dung xoay quanh các vấn đề thuộc về xã hội phong kiến Việt Nam (dù cho là tuồng mượn tích Trung Quốc hay nội dung kịch của Pháp như vở Lộ Địch 6 của Ưng Bình Thúc Dạ Thị thì rốt cục cũng là để nói chuyện nước ta).
- Kịch bản của tuồng cổ được viết bằng chữ Nôm, nên cùng với việc văn tự tượng hình truyền thống được dùng thời phong kiến này được thay thế bằng chữ quốc ngữ vào năm 1945 thì tuồng cổ không được tiếp tục sáng tác hoặc biên chép bằng chữ Nôm.
- Hiển nhiên, tuồng cổ gần với nguyên gốc nhất.
- Tuồng cổ có quá trình phát triển dài lâu, bắt rễ sâu rộng trong dân gian, tham dự vào sinh hoạt văn hoá dân gian trong nhiều thế kỷ, lại thu hút được đông đảo các nho sỹ tham gia sáng tác..
- Tuồng cổ có số lượng vở khá lớn với nội dung phong phú, phản ánh được nhiều tầng thứ văn hoá truyền thống Việt Nam, và trở thành một bộ phận quan trọng trong di sản văn hoá Việt Nam nói chung và lịch sử tuồng Việt Nam nói riêng..
- Tuồng cổ có giá trị là thế nhưng hiện nay số lượng tuồng cổ được trình diễn không nhiều.
- Hiện trạng này một phần do hạn chế khách quan của lịch sử mà trong một thời gian dài sau độc lập tuồng “vật vã” để được tồn tại và được công nhận, đến khi được công nhận lại cố gắng để thay đổi cho phù hợp với các nhiệm vụ chính trị đương thời, nhưng phần khác quan trọng hơn chính là vì lực lượng khai thác tuồng cổ và bản thân tuồng cổ ngày một mất mát, khó có thể khôi phục được.
- Thật may là thời gian gần đây, bộ môn nghệ thuật tuồng, nhất là tuồng cổ, được coi trọng một cách đúng mức, vì vậy, vấn đề bảo tồn và phục dựng tuồng cổ được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết.
- Tuồng là một loại hình ca kịch, vì vậy muốn phục dựng tuồng cổ phải dựa vào hai thành tố cơ bản cấu thành nên nó là: kịch bản và nghệ thuật biểu diễn.
- Trong khuôn khổ chủ đề bài viết, chúng tôi chỉ xin đề cập đến thành tố thứ nhất là kịch bản..
- Kịch bản tuồng cổ được viết bằng chữ Nôm.
- Thời phong kiến, con đường truyền thừa nghệ thuật tuồng được chia thành hai nhánh: truyền nghệ và lưu truyền kịch bản.
- Truyền nghệ tức là truyền lại nội dung, cốt truyện, các câu hát, thậm chí nguyên cả một kịch bản tuồng theo phương pháp “dĩ tâm truyền tâm”, người nghệ sỹ truyền lại cho nhau, các đời nối nhau thuộc lòng để diễn, có khi diễn viên diễn tuồng theo lối “diễn cương”, tức là không có kịch bản sẵn, trước khi diễn được phổ biến qua về nội dung rồi người nghệ sỹ dựa vào đó, dùng những câu hát thích hợp đã thuộc sẵn để tự dàn dựng nên vở, miễn là hát cho hợp lý.
- Con đường lưu truyền kịch bản để chỉ quá trình kịch bản tuồng được sao chép, truyền tay qua nhiều thế hệ trong một gánh hát, hoặc trao đổi giữa các gánh, các nghệ nhân biểu diễn khác nhau, cố nhiên khi sao chép nhiều nội dung đã được thêm, bớt cũng như cùng một kịch bản thì các gánh hát khác nhau, các kép hát khác nhau tuỳ từng trường hợp cụ thể có cách trình bày khác nhau, hoặc dài hơn, hoặc ngắn hơn, hoặc sửa chữa từ ngữ, câu hát.
- Nghệ sỹ có thực sự hiểu kịch bản mới có thể diễn đúng với tinh thần vở tuồng, thể hiện được nét tinh tế trong diễn biến tâm lý nhân vật..
- Khắc phục hạn chế về mặt văn tự, một số kịch bản tuồng cổ đã được phiên âm, dịch nghĩa và chú thích, nhưng số này là rất hạn chế so với trữ lượng phong phú của tuồng cổ.
- Trong thời gian qua, đã có một số kịch bản tuồng được phiên.
- Nếu không kể những văn bản tuồng được phiên sang quốc ngữ và xuất bản rộng rãi ở Sài Gòn từ đầu thế kỷ XIX cho đến trước giải phóng thì phải tính đến 3 vở tuồng cổ được Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách văn hoá, Sài Gòn xuất bản trước năm 1975 là Đinh Lưu Tú diễn ca 10 , Trần trá hôn 11 , Sơn Hậu 12 , ba bản này ngoài bản dịch, chú còn in đầy đủ nguyên văn chữ Hán.
- Người diễn viên khó có thể phục dựng lại tuồng cổ trong khi bản thân họ không khai thác được văn bản, những văn bản đã giới thiệu, phần lớn đã được phục dựng và trình diễn, chất liệu không có, lấy đâu cái để “gột nên hồ”.
- May mắn thay, kịch bản tuồng cổ, hiện nay tuy không còn đầy đủ như trước, nhưng số lượng còn lại khá nhiều, khá phong phú về kịch bản và truyền bản của kịch bản.
- Kể như, cơ sở của việc phục dựng tuồng cổ vẫn còn giữ được nền móng vững chắc..
- Tuy kịch bản tuồng được hình thành khá sớm, có vở đã được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng chỉ đến triều Tự Đức với quyết định lập Ban Hiệu thư thì những kịch bản tuồng tản mát trong dân gian, truyền thừa trong các gánh hát hoặc trong gia đình những người mê tuồng mới được tổ chức cố định hoá văn bản, hiệu chỉnh về văn từ, chỉnh sửa về số lớp, hồi như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương v.v.
- Đào Tấn thuộc “biên chế” Ban Hiệu thư đã phụng sắc soạn được 03 vở Bình địch, Đãng khấu chí, Tam thái giám thủ bửu, nhân bản văn bản tuồng và đưa vào các sở tàng thư của triều đình..
- Do đó, thật khó để chúng ta có thể biết được tại thời điểm “hưng thịnh” của nó, những cơ quan lưu trữ này đã lưu trữ những chủng loại thư tịch gì nói chung và tình hình lưu trữ kịch bản tuồng nói riêng.
- bộ thư mục còn lại này đã phản ánh hoàn toàn đầy đủ tất cả tư liệu vốn có ở các sở tàng thư nhưng chúng ta có cơ sở để tin rằng những bộ thư mục này đã phác hoạ khá rõ nét tình trạng của những trung tâm lưu trữ dưới triều Nguyễn và căn cứ vào những bộ thư mục này, diện mạo kho kịch bản tuồng sẽ được xây dựng gần với hiện thực nhất..
- Kết quả cho thấy, chỉ có hai bản thư mục có ghi chép về kịch bản tuồng là Tân thư viện thủ sách A..
- Nếu Tân thư viện (soạn năm 1914) chỉ chép về một bộ kịch bản tuồng duy nhất được lưu trữ tại đây là Vạn bửu trình tường với 27 bản chép tay 15 thì Cổ học viện thư tịch thủ sách (soạn năm 1925) biên chép tới 52 kịch bản tuồng 16 .
- Như vậy, tính đến năm 1925, có ít nhất 53 kịch bản tuồng được triều đình lưu trữ và đưa vào biên mục..
- Bên cạnh những cố gắng của triều đình, kịch bản tuồng được lưu truyền đến ngày nay còn do chính bản thân những người nghệ sỹ đã sao chép, lưu giữ..
- Những kịch bản tuồng Viện Sân khấu (Đại học Sân khấu - Điện ảnh) sưu tầm được phần lớn là mua được từ ông Hoàng Ngọc Cơ, tức Giám Cơ, chủ gánh Đồng Xuân Lâu ở Huế, nghệ sỹ Lê Bá Tùng khi tham gia xây dựng Nhà hát Tuồng Trung ương đã mang về cho nhà hát 13 bản tuồng ông sưu tầm được 17 v.v..
- Ngoài nghệ sỹ - người gắn bó trực tiếp với kịch bản tuồng – còn có những người yêu thích môn nghệ thuật này đã góp sức chung tay để lưu truyền chúng.
- Đạm Phương nữ sử đã cảm thán mà rằng: “Nghe đâu quan tá lý bộ Học Tiên Đẩu tiên sinh có xin trích ra một món tiền để tìm tòi sao lục các bản tuồng cổ, đưa vào các viện tàng thơ, khiến cho người sau còn được thưởng giám văn chương cổ điệu, thật là một sự bảo tồn xứng đáng thay” 18.
- Trên cơ sở bảo tồn nhà nước và bảo tồn tư nhân, kịch bản tuồng đã có thể được lưu truyền đến ngày nay, cho dù số phận của kịch bản tuồng cổ cũng như số phận của thư tịch Hán Nôm nói chung gặp khá nhiều bước truân chuyên.
- Thời phong kiến, thời mà tuồng còn thịnh hành như là món ăn tinh thần số một của toàn dân mà số phận còn như vậy, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, khi mà vấn đề giải phóng đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc được đặt lên trên hết, lại thêm nhiều chính sách về văn hoá do hạn chế của lịch sử đã không tạo điều kiện cho sự tồn tại và truyền thừa của kịch bản tuồng, “có người đã đem cả bồ kịch bản tuồng bán cân cho người ta dùng làm giấy cuộn thuốc lá.
- Mặc dù vậy, sự hiện tồn của kịch bản tuồng cổ ngày nay ngoài số đã bị huỷ hoại không thể tìm lại được, phần còn lại bằng nhiều con đường đã có mặt trong các trung tâm lưu trữ trong và ngoài nước, hoặc tư gia đã chứng minh rằng những cố gắng của con người qua các đời đã không uổng phí.
- Nối tiếp tiền nhân, chúng tôi mong muốn có thể đưa ra một cái nhìn chân thực về tình trạng văn bản tuồng cổ hiện.
- Tuy vậy, cũng như ở phần trên, chúng tôi từ trong những thông tin ít ỏi có được, mong muốn dựng lên một cách cơ bản diện mạo của những kịch bản tuồng hiện còn.
- Từ đó, cung cấp cơ sở cho công tác phục dựng và bảo tồn tuồng cổ trong thời gian sắp tới..
- Trong bảng thống kê này, tiêu chí thống kê là văn bản kịch bản tuồng hiện tồn tại các nơi lưu trữ.
- Trên thực tế, một kịch bản tuồng cổ có nhiều truyền bản, các truyền bản được lưu trữ tại các nơi khác nhau.
- Nhiều trường hợp, một kịch bản tuồng bị tách thành nhiều hồi, các hồi lại cũng được phân tán lưu trữ ở nhiều nơi..
- Đây là trường hợp của hai tuyến kịch bản sử dụng chất liệu của Tam quốc chí.
- Do thực trạng lưu trữ phức tạp và công việc đọc duyệt các văn bản này không phải chỉ trong một sớm một chiều nên ở đây chúng tôi lấy tiêu chí thống kê là văn bản kịch bản tuồng cổ chứ không phải là kịch bản tuồng.
- Như vậy, số kịch bản tuồng thực tế sẽ ít hơn nhiều so với số văn bản kịch bản tuồng cổ (một kịch bản tuồng có thể có nhiều truyền bản được lưu trữ ở nhiều nơi, hoặc chỉ có một văn bản nhưng được chia thành nhiều phần lưu trữ ở những nơi khác nhau v.v..)..
- 6 Biên soạn dựa theo kịch bản vở Le Cid của Corneille (Pháp)..
- 16 Xem thêm: Nguyễn Tô Lan, Về kịch bản tuồng tại Viện Cổ học (Huế) năm 1925, tạp chí Nghệ thuật Sân khấu điện ảnh, số 13, 2008, tr.20 - 25..
- VĂN BẢN KỊCH BẢN TUỒNG CỔ HIỆN TỒN 1.
- Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm có bản sao số văn bản tuồng này, nhận bàn giao từ Viện Thông tin Khoa học Xã hội ngày 18 tháng 11 năm 1988.
- Bắc Tống 2 x Theo Nguyễn Tô Lan, Về những bản tuồng.
- Bắc Tống diễn truyện 1 56 Theo Nguyễn Tô Lan, Về một vài bản tuồng mới sưu tập tại thành phố Huế, tạp chí Hán Nôm, số 5, 2005, tr.
- Theo Nguyễn Tô Lan, Về một vài bản tuồng mới sưu tập tại thành phố Huế, tạp chí Hán Nôm, số 5, 2005, tr.
- bản tuồng đã được phiên sang Quốc ngữ như: Liệu đố (1 hồi), Tân dã phân binh (1 hồi), Trầm hương các (1 hồi), Cổ thành hội (1 hồi), Hộ sanh đàn (1 hồi), Vạn bửu trình tường (hồi Cổ miếu vãn ca (1 hồi), Diễn võ đình (1 hồi), Lý Phụng Đình (1 hồi), Tiết Cương phá Thiết Ngưu Phần (1 lớp), Phục Hoa Dung đạo (1 hồi), Sách Kinh Châu (1 hồi), Gián thập điều (3 hồi), Nhị độ mai (7 hồi), Sanh tài tá quốc (1 hồi), Kỷ thu vân thọ nạn (1 hồi), Tống Thái Tổ trảm Trịnh Ân (1 hồi).
- Qua bảng thống kê trên, chúng ta có thông tin về 194 kịch bản tuồng ở 17 cơ sở lưu trữ (trong nước và ngoài nước, công cộng hay tư nhân).
- Trong 196 kịch bản tuồng này, có nhiều kịch bản cùng thuộc về một vở như Đinh Lưu Tú diễn ca được lưu trữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện bảo tàng Guimet (Paris), hai bản này một bản in ở Trung Quốc, một bản được chép tay lại, sai khác không nhiều.
- Nhìn vào đầu mục kịch bản tuồng hiện còn, chúng ta thấy so với 53 vở tuồng được lưu giữ vào thời Nguyễn thì hiện tại còn giữ được 25 vở, ngoài ra những vở khác cũng đã được sưu tầm và nhân bản thêm, để có được con số ban đầu theo thống kê trên là 194.
- Đây là một con số đáng kể về mặt số lượng thư tịch hiện còn cho một thể loại thư tịch đặc thù như tuồng bản và là cơ sở vững chắc để tiến hành phục dựng và bảo tồn tuồng cổ..
- Điểm phân biệt của văn bản tuồng cổ so với những văn bản Hán Nôm khác là những văn bản này được chia thành hai hệ chính: một loại dùng để biểu diễn, một loại chủ yếu dùng để đọc.
- Tuy vậy, nhược điểm chính của loại này là văn từ tuy diệu xảo nhưng nhiều chỗ để thuận văn nên phải phạm vào âm luật, hoăc giả người sáng tác không câu nệ lắm vào nó nên thành ra kịch bản không phù hợp với thực tế diễn xuất.
- Trong kịch bản tuồng, chỉ cần một chữ phạm âm luật, người diễn viên đã không thể hát được.
- Tác dụng chính của kịch bản tuồng loại này vẫn không nằm ngoài thưởng ngoạn văn học, bởi thực sự chính nó có giá trị văn học rất cao: “Văn chương tuồng hát là một lối văn chương đặc biệt của người An Nam mình.
- Trong công tác phục dựng tuồng cổ, cả hai loại kịch bản tuồng cổ trên đều phát huy được tác dụng của nó từ hai hướng khác nhau, xuất phát từ chính đặc điểm của nó..
- Loại thứ nhất vốn dĩ là kịch bản dành cho nghệ sỹ biểu diễn, phù hợp với hoạt động biểu diễn của người nghệ sỹ xưa, thì nay nó cũng phục vụ hiệu quả cho nghệ sỹ bộ môn tuồng.
- Như ở phần đầu bài viết đã đề cập, một hạn chế khá lớn mà người nghệ sỹ ngày nay gặp phải là ngôn ngữ, họ không được học chữ Nôm để có thể đọc được văn bản kịch bản tuồng cũng như không có phông nền văn hoá Hán cổ để thẩm thấu được văn từ trong tuồng bản.
- Vì vậy, số vở tuồng cổ được phục dựng đã ít mà số diễn viên diễn cho đúng được cái thần của câu hát, cái hồn của nhân vật lại càng ít.
- Trước hết, văn bản kịch bản tuồng cổ phải được nghiên cứu kỹ càng về văn bản học, chọn ra một bản đầy đủ, đáng tin cậy nhất làm bản nền.
- Để tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu, văn bản tuồng cổ nên được đưa vào một chương trình sưu tầm cấp quốc gia nhằm tập trung các văn bản này về một cơ sở chính.
- Công tác nghiên cứu, dịch thuật, chú thích kịch bản tuồng cổ ngoài việc cung cấp “nguyên liệu” trình diễn cho diễn viên còn có thể hỗ trợ cho công chúng yêu nghệ thuật trong và ngoài nước.
- Giới thiệu nội dung cơ bản của vở tuồng và những trích đoạn tiêu biểu cũng là việc cần thiết trong những chương trình truyền hình trực tiếp tuồng cổ..
- Để khôi phục, bảo tồn tuồng cổ, việc cần làm song song với việc phục dựng các kịch bản cổ là khôi phục lại công chúng văn hoá của tuồng cổ..
- Tuồng cổ dù hay dù đẹp đến đâu, có được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ca ngợi đến đâu nếu không có công chúng văn hoá của nó thì cũng chỉ là một vài vở diễn đem đi tranh tài ở các hội thi hoặc giả trở thành đối tượng cho một dự án bảo tồn văn hoá nào đó, những dự án mà kết thúc, tuồng cổ được đem ra bình luận đánh giá trong hội nghị tổng kết, vở diễn được diễn báo cáo hội nghị rồi lại “đắp chiếu” mà thôi..
- Đã có nhiều nỗ lực thử nghiệm đưa tuồng cổ vào nhà trường, lên truyền hình với nhiều hình thức khác nhau, hoặc giả gần đây có ý kiến đưa một số trích đoạn tuồng tiêu biểu vào sách giáo khoa v.v.
- Bên cạnh những biện pháp kể trên, kịch bản tuồng cũng có thể tham gia một cách tích cực vào việc xây dựng mỹ cảm tuồng cổ cho công chúng thông qua việc xuất bản những kịch bản tuồng cổ có giá trị như là những tác phẩm văn học thực thụ.
- Đây chính là chỗ để hệ kịch bản thứ hai chúng tôi đề cập đến ở trên phát huy tác dụng..
- Hệ kịch bản thứ hai là những kịch bản chủ yếu được viết ra để đọc với tư cách là một tác phẩm văn học, thường có giá trị nghệ thuật cao khiến độc giả phổ thông dù không có tri thức về nghệ thuật tuồng cũng dễ dàng tiếp nhận.
- Trước năm 1975, ở Sài Gòn đã từng có nhiều kịch bản tuồng cổ được phiên âm ra quốc ngữ bán rộng rãi và được công chúng tiếp nhận nồng nhiệt.
- Ở miền Bắc cũng đã có một số kịch bản, sau đó được xuất bản, những năm gần đây tuy công việc này vẫn được tiếp tục nhưng số lượng kịch bản xuất bản không nhiều, tựu trung vẫn xoay quanh một số vở “kinh điển” như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương 15 , Đào Phi Phụng 16 hoặc một số vở tuồng hài cổ như Tiên Bửu, Trương Ngáo 17 v.v.
- Việc xuất bản những kịch bản tuồng này là việc cần thiết bởi qua nội dung về mặt văn học, người đọc dần dần có khái niệm về trình thức của tuồng cổ (các lối bạch, hát nam, hát khách), mỹ học của tuồng cổ (hình thức đăng đối của câu hát, nghệ thuật sử dụng điển tích điển cổ) v.v… mà gây dựng được lòng yêu mến, nếu không, ít nhất là sự hiếu kỳ với môn nghệ thuật này.
- Xuất bản kịch bản tuồng cổ là “một mũi tên trúng hai đích”, nhất là với những kịch bản tuồng cổ vừa có giá trị văn học, vừa có giá trị biểu diễn.
- Xét về những vở tuồng mẫu mực như Sơn Hậu, Đào Phi Phụng, Kim Thạch kỳ duyên, Trần trá hôn, Đinh Lưu Tú, Ngũ hổ bình Liêu v.v…, việc cung cấp kịch bản cho công chúng giúp công chúng trước khi xem tuồng đã có sẵn vốn văn hoá đọc về tuồng, ít nhiều biết được nội dung vở tuồng ra sao, có những nhân vật nào, nhân vật nào thiện, nhân vật nào ác, diễn biến tâm lý nhân vật.
- Ví như những Ngũ hổ bình Liêu, Đường Chinh Đông, Đường Chinh Tây, Tam hạ nam Đường vốn đã quen thuộc với công chúng ngày nay qua phim truyền hình Trung Quốc (cũng như quen thuộc với công chúng xưa qua các tiểu thuyết được bày bán la liệt trên phố) thì lại càng dễ dàng hơn để tiếp nhận kịch bản văn học của tuồng.
- Trường hợp này rõ ràng với tuồng cổ Tam quốc chí.
- Tuồng này có hai hệ kịch bản.
- Hội Cổ Thành chúa thần tụ nghĩa”, hồi 64 bắt đầu bằng câu “Khổng Minh định kế tróc Trương Dụng, Dương Phụ tá binh phá Mã Siêu” làm kịch bản tuồng vẫn mang dáng dấp của một tiểu thuyết chương hồi.
- Kịch bản này đem lại một cái nhìn tổng thể cho người đọc, người xem tuồng về Tam quốc chí, hình dung được các trích đoạn riêng biệt nằm ở đâu, trước đó ra sao, sau đó thì như thế nào..
- Hai hệ kịch bản này hỗ trợ lẫn nhau, khiến cho Tam quốc chí trở thành một trong những kịch bản tuồng được ưa chuộng trước kia..
- Trong những năm gần đây, một số vở tuồng cổ đã được phục dựng.
- Phải kể đến các vở/ trích đoạn tuồng cổ do Nhà hát Nghệ thuật hát bội Thành phố Hồ Chí Minh trình diễn như: Trảm Trịnh Ân, San Hậu, Bạch Viên - Tôn Các v.v.
- hoặc phục dựng hồi thứ hai vở Ngũ hổ bình Liêu của Nhà hát Tuồng Đào Tấn, trình diễn vào tết cổ truyền năm Đinh Hợi 19 , và gần đây là một số vở, trích đoạn tuồng cổ được biểu diễn tại rạp Hồng Hà (Nhà hát Tuồng Trung ương) như Triệu Đình Long cứu chúa, Nữ tướng Đào Tam Xuân, Mộc Quế Anh dâng cây v.v.
- Mặc dù đây đã là cố gắng vượt bậc của các đoàn tuồng cũng như nhà hát trong điều kiện công chúng còn ít ỏi, nghệ sỹ lão thành đã khuất bóng nhiều, không còn người chỉ dạy các vở tuồng cổ nhưng thực sự vẫn chưa có thể làm nên một bóng dáng tuồng cổ trong công chúng đương đại.
- Chúng ta đang có trong tay một kho báu vô giá là kho kịch bản tuồng cổ đang chờ được khai thác với số lượng lên đến 1946 bản.
- Vậy việc trước mắt chính là phải tập hợp tuồng cổ tại các trung tâm lưu trữ và những tư gia tại một trung tâm.
- xây dựng đội ngũ học giả chuyên phiên dịch, chú giải, nghiên cứu giá trị tuồng cổ.
- tiến hành công tác xuất bản, giới thiệu kịch bản tuồng với nghệ sỹ biểu diễn tuồng trong cả nước và độc giả nói chung.
- Đây là một việc cần làm ngay trước khi kịch bản tuồng mai một hoặc bị huỷ hoại.
- Hoàng Chương đã kêu gọi tha thiết trong Báo cáo đề dẫn Hội thảo “Danh sỹ Huế với tuồng truyền thống Huế” 20 : “...tôi đề nghị Huế nên đầu tư (dĩ nhiên là nhà nước phải cấp một khoản kinh phí lớn) cho việc dịch và phổ biến hàng chục ngàn trang kịch bản tuồng Hán Nôm vốn ra đời từ Huế trong thế kỷ XIX, rồi sống.
- Trong sách này, sau Trùng tương tân lục có phụ chép thêm một số hồi của kịch bản tuồng Tam quốc chí.
- 16 Xem Kịch bản Tuồng trước Cách mạng, tập 2, Viện Nghiên cứu Sân khấu xuất bản, Hà Nội, 1970..
- Nguyễn Văn Sâm là người đã thu thập được 33 hồi của kịch bản này từ nhiều nguồn (gồm các hồi và cung cấp toàn bộ cho chúng tôi