« Home « Kết quả tìm kiếm

Phương pháp giải bài tập điện một chiều lớp 9


Tóm tắt Xem thử

- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiển.
- Các bước giải một bài toán vật lí.
- PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TOÁN ĐIỆN MỘT CHIỀU LỚP 9.
- Trong môn học Vật lý thì Điện Học là một phần có ứng dụng rất gần gũi với các em và có lượng kiến thức sâu rộng, bài tập đa dạng và phong phú.
- Tuy nhiên để các em học giỏi phần này, làm tốt bài tập phần này thì giáo viên phải có các phương pháp phù hợp để truyền tải đầy đủ kiến thức cho các em, từ đó các em có hứng thú học tập để đạt được kết quả cao.
- Qua giảng dạy và khảo sát bằng thực nghiệm tôi nhận thấy khả năng học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập chưa hiệu quả, phần lớn các em không giải được bài tập..
- “Phương pháp giải bài tập phần điện một chiều lớp 9” với mong muốn phần nào giúp các em có được sự tiến bộ trong học tập, có được phương pháp giải bài tập đúng đắn để tạo hứng thú học tập cho các em..
- Nghiên cứu một số phương pháp giải bài tập phần điện một chiều lớp 9 phù hợp với đặc điểm, tình hình, trình độ của từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật Lý cấp trung học cơ sở..
- Các phương pháp giải bài tập vật lí phần điện một chiều cấp trung học cơ sở..
- Học sinh lớp 9 trường trung học cơ sở Lê Hồng Phong – Cam Lộ..
- Phương pháp nghiên cứu lý luận (tham khảo các tài liệu, sách, báo và các Website có liên quan)..
- Phương pháp phân tích, tổng hợp .
- Khảo sát qua bài làm trên lớp và điều tra học sinh lớp 9 ở trường THCS Lê Hồng Phong..
- Sử dụng phiếu điều tra trắc nghiệm để thu thập thông tin về tình hình thực tiễn, phương pháp giải các bài tập Vật lí phần điện một chiều và việc thường xuyên học bài và làm bài tập ở nhà của học sinh..
- thông tin bổ sung cho phương pháp điều tra..
- Các phương pháp giải bài tập Vật lí phần điện một chiều trong chương trình lớp 9..
- Phương pháp giáo dục tích cực là người học tự tìm ra kiến thức bằng hành động thao tác.
- Học sinh học cách học, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, cách sống và trưởng thành.
- Học sinh tự đánh giá và điều chỉnh làm cơ sở cho giáo viên cho điểm cơ động..
- Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
- Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi người giáo viên phải tích cực, nhiệt tình, tận tụy với học sinh, tìm hiểu sâu sát với từng đối tượng học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp..
- Để hướng dẫn học sinh làm bài tập phần Điện một chiều trong chương trình lớp 9 không phải giáo viên trình bày lời giải, học sinh chép lại mà giáo viên phải là người tổ chức hướng dẫn các em thông qua hệ thống các câu hỏi gợi mở để các em chủ động tìm ra hướng giải.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài tập, người thầy cần rèn cho học sinh kĩ năng, thói quen độc lập suy nghĩ khoa học và lời giải phải có cơ sở lí luận, lôgic, chặt chẽ..
- Cam Tuyền là một xã có điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, ý thức tự học của các em còn nhiều hạn chế, phần lớn phụ huynh mãi lo làm ăn nên không quan tâm đến việc học của các em..
- Các em nắm bắt kiến thức một cách thụ động, lý thuyết chưa vững, công thức chưa nắm thật kỹ.
- Nên việc giải bài tập gặp không ít khó khăn..
- Để khảo sát tình hình học tập của học sinh, chúng tôi tiến hành phát phiếu thăm dò và khảo sát bài làm trên giấy của các em..
- Với bài tập vật lí điện một chiều, em có thể giải được các bài tập ở mức độ nào?.
- Trong tổng số 54 học sinh lớp 9 được khảo sát thì thu được kết quả như sau:.
- Mức độ Số học sinh chọn Tỉ lệ.
- Qua phiếu thăm dò này ta thấy khả năng học sinh làm bài tập phần điện một chiều rất hạn chế.
- Có đến 37,1% học sinh không làm được loại bài nào, 44,4%.
- làm được các bài tập dễ, chỉ có 3,7% học sinh làm được các bài tập khó và 14,8% học sinh làm được các bài tập hơi khó.
- Để biết một cách cụ thể học sinh có khả năng giải được các loại bài ở mức độ dễ, khó thế nào, chúng tôi tiến hành khảo sát hai bài tập sau:.
- Bài khảo sát học sinh:.
- a) Khi công tắc mở, hai đèn có hoạt động không? Vì sao?.
- b) Biết điện trở của đèn 1 là 12Ω, của đèn 2 là 7,2Ω.
- Có 54 bài của 54 học sinh lớp 9 được tham gia khảo sát..
- Bảng 2: Bảng kết quả làm bài của học sinh.
- Câu Số học sinh làm được Tỉ lệ.
- Bảng 3: Bảng phân loại mức điểm của học sinh.
- Số học sinh .
- Trong hai bài tập khảo sát có 5 câu ở các mức độ khác nhau, trong đó câu 1a là câu ở mức độ nhận biết cũng chỉ có 31 em làm được.
- Qua việc thăm dò và khảo sát, chúng tôi thấy tình hình học tập của các em chưa đạt hiệu quả cao.
- Kiến thức toán của các em còn hạn chế nên không thể tính toán cũng như biến đổi các công thức..
- Không học thuộc công thức vật lí.
- Các em không hiểu rõ bản chất của một hiện tượng vật lí..
- Để học sinh có kỹ năng giải bài tập vật lí nói chung và phần điện một chiều nói riêng, trong quá trình giảng dạy giáo viên cần thực hiện như sau:.
- Trong các tiết học lý thuyết ở trên lớp giáo viên cần truyền tải kiến thức đến cho các em một cách đầy đủ, chính xác..
- Cần phải rèn cho các em có một thái độ học tập nghiêm túc, đúng đắn.
- Các em phải có ý thức về việc học của mình, không chây lười, không ỷ lại.
- Giáo viên phải có các phương pháp dạy học phù hợp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
- Biết quan tâm đến từng đối tượng học sinh và động viên sự tiến bộ của các em..
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài tập cần cho các em nêu được phương pháp giải bài tập của từng dạng cụ thể..
- Chọn lọc một số bài tập điển hình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp..
- Chọn những bài tập có chứa đựng những mâu thuẩn, những điều mang tính chất nghịch lý so với nhận xét thông thường của học sinh, những bài tập có liên quan đến thực tế cuộc sống.
- Phân loại các dạng bài tập có mức độ khó – dễ phù hợp với từng đối tượng học sinh..
- Gợi ý nêu vấn đề để kích thích học sinh suy nghĩ đúng hướng bài tập..
- Bổ túc một số kiến thức toán học cơ bản làm nền tảng cho việc giải bài tập vật lí..
- Học sinh có thể liệt kê tất cả các công thức liên quan đến các dữ kiện trong phần tóm tắt sau đó lựa chọn công thức phù hợp, đơn giản nhất nhất để áp dụng..
- Một đoạn mạch điện gồm một bóng đèn có ghi 6V - 2,4W mắc nối tiếp với biến trở R x .
- Biết đèn sáng bình thường và biến trở có giá trị nhỏ nhất..
- c) Di chuyển con chạy của biến trở thì độ sáng của đèn thay đổi như thế nào? Vì sao?.
- Với đề bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước như đã nêu..
- Giáo viên cho học sinh đọc kỹ đề và tóm tắt đề bài..
- c) Di chuyển con chạy của biến trở thì độ sáng của đèn thay đổi thế nào?.
- Các số ghi trên bóng đèn, trên các đồ dùng điện có ý nghĩa gì?.
- Hãy so sánh hiệu điện thế giữa hai đầu đèn với hiệu điện thế định mức của đèn..
- a) Học sinh sử dụng các kí hiệu trong sơ đồ điện để vẽ đúng mạch điện..
- b) Dựa vào điều kiện bài toán, học sinh tính được:.
- Học sinh biện luận để xác định được số chỉ của ampe kế I = I đm = 0,4A..
- Sau khi phân tích, học sinh có thể chọn cách giải sau để tính R x..
- Giáo viên hướng dẫn để học sinh phân tích được như sau:.
- Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng phương pháp tôi nhận thấy:.
- Học sinh rèn được phương pháp tự học, tự phát hiện vấn đề, biết nhận dạng một số bài toán, nắm vững cách giải.
- Đa số các em đã yêu thích giờ học Vật lí, nhiều học sinh tích cực xây dựng bài..
- Học sinh rất có hứng thú để giải bài tập Vật lí nói chung và phần Điện một chiều nói riêng..
- Để khẳng định các nhận xét trên tôi đã khảo sát lại các em bằng một bài kiểm tra sau:.
- Đề khảo sát sau khi áp dụng phương pháp mới Câu 1.
- Trên hai bóng đèn có ghi: 110V – 25W và 110V – 100W..
- a) So sánh điện trở của hai bóng đèn trên..
- b) Có thể mắc nối tiếp hai bóng đèn này vào hiệu điện thế 220V được không? Vì sao?.
- Bảng 4: Bảng phân loại mức điểm của học sinh sau khi khảo sát Điểm 0 - <3 3 - <5 5 - < lt;8 8 - 10.
- phương pháp mới .
- Qua bảng đối chiếu trên, ta thấy tỉ lệ học sinh trung bình, khá và giỏi tăng lên còn tỉ lệ học sinh yếu, kém giảm rất đáng kể.
- Điều này đã chứng minh cho việc áp dụng các phương pháp giải bài tập trên là phù hợp và hiệu quả..
- Để giúp học sinh hứng thú và đạt kết quả tốt trong việc giải bài tập vật lí, điều cơ bản nhất mỗi tiết dạy giáo viên phải tích cực, nhiệt tình, truyền đạt chính xác, ngắn gọn nhưng đầy đủ nội dung bài học.
- Những tiết lý thuyết, thực hành cũng như tiết bài tập giáo viên phải chuẩn bị chu đáo bài dạy, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà đầy đủ để lên lớp các em tiếp thu bài một cách hiệu quả và từ đó khắc sâu được kiến thức và phương pháp giải bài tập của học sinh..
- Thường xuyên nhắc nhở các em yếu, động viên, biểu dương các em khá giỏi, cập nhật vào sổ theo dõi và kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời, kiểm tra thường xuyên vở bài tập vào đầu giờ trong mỗi tiết học, làm như vậy để cho các em có một thái độ đúng đắn, một nề nếp tốt trong học tập..
- Đối với một số học sinh chậm tiến bộ thì phải thông qua giáo viên chủ nhiệm kết hợp với gia đình để giúp các em học tốt hơn, hoặc qua giáo viên bộ môn toán để bổ túc kiến thức về toán học cho các em.
- Qua thời gian áp dụng phương pháp ở trên tôi nhận thấy học sinh say mê, hứng thú và đã có sự tiến bộ trong học tập.
- Học sinh đã phát huy tính chủ động, tích cực hơn khi nắm được phương pháp giải loại bài toán này..
- Trên đây là một số giải pháp và bài học kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình dạy học, có thể đây chưa phải là phương pháp tối ưu nhưng khi áp dụng ở trường chúng tôi thì cũng đã đem lại kết quả đáng ghi nhận..
- Có kế hoạch phụ đạo để bổ túc những kiến thức về toán học cho học sinh..
- Tăng số giờ bài tập ở trên lớp để giáo viên có điều kiện hướng dẫn cách làm và chữa bài cho học sinh..
- Nguyễn Thanh Hải (2006), Bài tập chọn lọc và nâng cao vật lí 9, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội..
- Đoàn Duy Hinh (2006), Bài tập vật lí 9, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.