« Home « Kết quả tìm kiếm

Qua thành Bản phủ trở lại vấn đề Thục Phán - An Dương Vương trong lịch sử Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- TRë L¹I VÊN §Ò THôC PH¸N – AN D¦¥NG V¦¥NG TRONG LÞCH Sö VIÖT NAM.
- Vấn đề nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương và sự ra đời của nước Âu Lạc là một trong những vấn đề cốt lõi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam.
- Trong quá trình nghiên cứu, các nhà học giả đều ghi nhận: Nước Âu Lạc kế tiếp nước Văn Lang và An Dương Vương kế ngôi vua Hùng là những sự kiện, nhân vật lịch sử có thật.
- Song cho đến nay, xung quanh vấn đề nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương và sự ra đời của nhà nước Âu Lạc vẫn có nhiều ý kiến khác nhau.
- Những tài liệu cổ xưa nhất ở Trung Quốc như Giao Châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký đều ghi An Dương Vương là “Thục Vương Tử” (con vua Thục)..
- Sách Hậu Hán thư khi chép về quận Giao Chỉ cũng chú thích: “Đấy là nước cũ của An Dương Vương.
- Một số sách cổ khác ở Trung Quốc cũng ghi rằng An Dương Vương là con vua Thục, nhưng không cho biết xuất xứ cụ thể của vua Thục và vua Thục là ai, vị trí của nước Thục ở đâu?....
- Một số bộ sử sách cổ xưa của Việt Nam như Việt sử lược (thế kỷ XIV) cũng có một câu về nguồn gốc của An Dương Vương là: “Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay.
- Phán đắp thành ở Việt Thường (Cổ Loa – Đông Anh) xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu 1 .
- Đến thế kỷ XV, khi biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư – Ngô Sỹ Liên dựa vào sách Lĩnh Nam chích quái chép về An Dương Vương rõ hơn và tách thành một kỷ gọi là.
- “Kỷ nhà Thục”, ông viết rằng: “An Dương Vương họ Thục, tên huý là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa)..
- Giáp Thìn, năm thứ nhất (257 tr.CN), vua đã kiêm tính nước Văn Lang, đổi quốc hiệu làm Âu Lạc".
- Nhà sử học Ngô Thì Sỹ – cuối thế kỷ XVIII khi chép về An Dương Vương – cũng nhắc lại giống như Đại Việt sử ký toàn thư, nhưng đã bác bỏ giả thuyết An Dương Vương "họ Thục".
- "An Dương Vương huý Phán, người Ba Thục.
- Vì thời kỳ đó các sử gia phong kiến Việt Nam cho rằng Thục Phán – An Dương Vương là con vua Thục, người gốc Ba Thục (Tứ Xuyên – Trung Quốc) lập nước Âu Lạc vào năm 257 tr.CN.
- Đến năm 1821, Phan Huy Chú, biên soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí dâng lên vua Minh Mệnh, cũng ghi: "An Dương Vương tên là Phán, người Ba Thục".
- Đến thời vua Tự Đức bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, đã nêu nghi vấn: "Nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh Vương nhà Chu (316 năm tr.CN), đã bị nhà Tấn diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiển Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác, và đất Nhiễm Mang (những đất này xưa kia là đất rợ mọi ở về phía tây và nam, nay thuộc Vân Nam) cách hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang".
- Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, khi đề cập đến nguồn gốc của nhà Thục cũng khẳng định: "Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nhà Thục bên Tàu” (nghĩa là Ba Thục ở Tứ Xuyên).
- Ngô Tất Tố cũng khẳng định rằng: "Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục".
- Các sử gia từ thời phong kiến Việt Nam đã nghi ngờ cả về thời gian và không gian qua đó có thể thấy ngay được là nước Thục (Ba Thục) đã bị diệt vào năm 316 tr.CN.
- vượt hàng ngàn dặm núi rừng, qua lãnh thổ của nhiều nước để mà tiến đánh và chiếm Văn Lang năm 257 tr.CN được.
- Sự khác biệt đến mâu thuẫn đó càng làm rõ thêm những căn cứ đang nghi ngờ, cho nên có thể phủ định giả thuyết nguồn gốc Ba Thục của Thục Phán – An Dương Vương..
- Việc nghiên cứu về Thục Phán – An Dương Vương càng ngày càng được nhiều người quan tâm, nhất là sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc.
- Năm 1963, khi các nhà nghiên cứu dân tộc học phát hiện truyền thuyết "Cẩu chủa cheng Vùa".
- (Chín chúa tranh vua) là câu truyện cổ rất phổ biến trong vùng đồng bào Tày ở Cao Bằng.
- Nội dung câu chuyện là: Khoảng cuối thời Hùng Vương, ở phía Nam Trung Quốc có một nước tên là Nam Cương, bao gồm miền Tây tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) cả vùng Cao Bằng ngày nay, Nam Cương có.
- 10 xứ mường, trong đó một xứ mường trung tâm là nơi vua ở, đó là kinh đô Nam Bình (nay là Cao Bình, Hưng Đạo, Hoà An, Cao Bằng) còn 9 xứ mường xung quanh do 9 chúa mường cai quản.
- Thục Phán tuy còn nhỏ tuổi nhưng tỏ ra là người thông minh tài cán.
- Thục Phán lại bày ra cuộc đua tài, ai giỏi nghề gì thì làm nghề đó, hẹn ba ngày ba đêm thì kết thúc, ai hoàn thành đúng hạn sẽ được làm vua.
- Thục Phán một mặt ký giao kèo để các chúa thi đấu với nhau, mặt khác chọn 9 cung nữ có đủ tài sắc, văn võ kiêm toàn, lẻn đi theo các chúa, dùng mỹ nhân kế để mê hoặc các chúa và làm thất bại cuộc đua tài của họ, khi sắp sửa thành công.
- Thục Phán vẫn giữ ngôi vua.
- Các chúa đều quy phục..
- Thục Phán đã được vua Hùng nhường ngôi và sáp nhập hai vùng lãnh thổ thành lập nước Âu Lạc, hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội)..
- Truyền thuyết Cẩu chủa cheng Vùa còn được minh chứng bằng các di tích, di vật và địa danh cụ thể tại Cao Bằng như Tổng Lằn (trống lăn) ở xã Thịnh Vượng huyện Nguyên Bình, Tổng Chúp (xã Hưng Đạo, huyện Hoà An).
- Khau Lừa (xã Bế Triều, huyện Hoà An), đôi guốc đá khổng lồ ở Bản Thảnh (xã Bế Triều, Hoà An), cây đa cổ thụ ở Cao Bình (xã Hưng Đạo), bãi Phiêng Pha (xã Mai Long – Nguyên Bình), các địa danh làm thơ, mài kim, đun gạch, xây thành đều tập trung ở Cao Bằng.
- Giả thuyết về nguồn gốc Thục Phán là người bản địa còn được phản ánh trong các thần tích, ngọc phả, trong các nghi thức thờ cúng, trong ký ức dân gian, An Dương Vương – Thục Phán luôn luôn là một người có công dựng nước, giữ nước, như một vị anh hùng được tôn kính..
- Từ truyền thuyết trên, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung hướng về Cao Bằng tìm quê hương Phục Phán và tin rằng Phục Phán là một thủ lĩnh của một liên minh bộ lạc người Tây Âu ở phía Bắc nước Văn Lang, với liên minh bộ lạc đó là nước "Nam Cương, gồm 10 xứ mường (9 mường của 9 chúa và 1 mường trung tâm của Thục Phán), tức 10 bộ lạc hợp thành, với địa bàn cư trú gồm vùng nam Quảng Tây, Cao Bằng và có thể rộng hơn, cả vùng núi rừng, phía bắc Bắc Bộ, mà trung tâm là Cao Bằng".
- Đào Duy Anh cho biết: "Sự phát hiện truyền thuyết của người Tày trên kia đã khiến chúng tôi thay đổi ít nhiều ý kiến tranh cãi ức thuyết về sự thành lập nước Âu Lạc mà chúng tôi đã trình bày trong sách lịch sử.
- Nam sông Tả Giang và lưu vực sông Hữu Giang cùng với thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu là địa bàn sinh tụ của những bộ lạc Tây Âu hợp thành bộ lạc liên hiệp Nam Cương mà Thục Phán là tù trưởng tối cao".
- Trong bài bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương, tác giả Nguyễn Duy Hinh cho rằng Thục Phán là người đứng đầu một nhóm Lạc Việt, Tây Âu là một nước của người Việt, do đó cuộc xung đột Hùng – Thục thực chất là cuộc đấu tranh nội bộ người Âu Lạc".
- Đến nay nhiều thần tích và truyền thuyết về Hùng Vương và An Dương Vương coi Thục Phán thuộc dòng dõi, tông phái hoặc là "cháu ngoại".
- Qua những tư liệu thư tịch và tư liệu truyền thuyết trên, chúng ta có thể khẳng định: Thục Phán không thể là con vua nước Ba Thục ở Tứ Xuyên (Trung Quốc).
- Mà có thể khẳng định ông là người Tày cổ, thủ lĩnh liên minh bộ lạc Tây Âu mà trung tâm là Cao Bằng.
- Điều đó còn được minh chứng rõ hơn trong truyền thuyết cổ Cẩu chủa cheng Vùa có chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý, chứa đựng những hạt nhân lịch sử của nó, vì vậy cần phải khai thác và nghiên cứu kỹ hơn, sâu hơn..
- Đến nay những tập tục, truyền thuyết dân gian tại Cổ Loa và vùng xung quanh cũng phù hợp với cách lý giải về nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương là người Tày cổ giống như truyền thuyết Cẩu chủa cheng Vùa.
- "Trong tâm thức dân gian vùng Cổ Loa luôn ghi nhớ nguồn gốc "người thượng du".
- của vua Thục.
- Thậm chí truyền thuyết còn nói rõ quê gốc của Thục Phán – An Dương Vương là Cao Bằng".
- Như vậy, không chỉ nhân dân Cao Bằng và các nhà khoa học khẳng định Thục Phán – An Dương Vương có nguồn gốc ở Cao Bằng mà cả một phần nhân dân ở phía Bắc – Bắc Bộ, từ xa xưa đã coi Thục Phán – An Dương Vương có quê gốc ở Cao Bằng.
- Điều đó phù hợp với thực tế lịch sử và minh chứng thêm cho sự hợp lý giữa truyền thuyết với những hạt nhân lịch sử, lớn hơn là điều đó hợp với nhận định của các nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài khi nghiên cứu về cổ sử Việt Nam..
- Còn Hoàng cung nơi vua ở nằm trên một khu đất bằng phẳng, đó là thành Bản Phủ ngày nay..
- tiếp đó là cánh đồng Tổng Chúp,.
- trước đó gọi là cánh đồng Tổng Quảng có nghĩa là cánh đồng rộng, sau cuộc đua tài của chúa Tiến Đạt chưa cấy hết (còn bằng cái nón) nên được gọi là cánh đồng Tổng Chúp.
- Bên phải và bên trái thành còn có vườn hoa (Đào Viên), cung Hoàng hậu, nhân dân quen gọi là Đông Tầm và một bên là khu vực dành cho các cung nữ..
- Phía trên khu đồi gọi là Thôm Dạng tức là khu vực nuôi voi, khu vực dành cho các em nhỏ gọi là Hồ nhi.
- Ra khỏi vòng thành ngoài, gần Đầu Gò hiện nay có một đôi guốc đá khổng lổ chưa kịp đục lỗ xỏ quai, đó là kết quả thi tài của chúa Văn Thắng.
- tiếp tục đi theo quốc lộ 4 khoảng 1km ở bên phải đường có một quả đồi gọi là Khau Lừa tức đồi thuyền, theo truyền thuyết đó là con thuyền mà chúa Ngọc Tặng chưa kịp lật.
- Còn các chúa làm thơ, mài kim.
- Nhưng cả Quang Thạc cũng bị trúng mỹ nhân kế của Thục Phán nên để trống lăn xuống vực mà kêu ầm lên vang vọng cả núi rừng, nơi trống lăn gọi là Tổng Lằn..
- Như vậy là, từ thành Bản Phủ – Thục Phán đã tổ chức cuộc thi và giành thắng lợi trước các chúa.
- Đồng thời trong tâm thức dân gian vẫn còn nhiều tập tục – có thể gọi là một loại hình văn hoá tộc người lưu lại và liên quan đến Thục Phán – An Dương Vương và thành Cổ Loa.
- Đó là các biểu tượng Rùa vàng, Gà trắng, trong đó Gà trắng phá hoại việc xây thành Cổ Loa, Rùa vàng giúp xây thành.
- Gà trắng và Rùa vàng có thể gọi là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng trong dân tộc Tày.
- Từ những quan niệm đó đến những phong tục, tập quán của người Tày về Rùa vàng và Gà trắng, có thể thấy rõ "Sự tương đồng với những chi tiết trong truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa".
- Những nét tương đồng ấy phải chăng có cội nguồn từ nguồn gốc Tày cổ của Thục Phán – An Dương.
- Vương? Vì nhà vua là Tày cổ nên những quan niệm, phong tục cổ của người Tày đã được đưa đến vùng đất Cổ Loa".
- Không chỉ như vậy, mà gần đây (những năm 1960 của thế kỷ trước), ở Cao Bằng còn lưu truyền "Slửa Nộc Soa".
- Đó là những chiếc áo gần với chiếc "áo lông ngỗng".
- Ngay cả địa danh Cổ Loa, các nhà ngôn ngữ – dân tộc học lịch sử đã phân tích nguồn gốc biến âm từ Kẻ Lũ, những địa danh có tên Kẻ ở Cao Bằng không phải ít, gần thành Bản Phủ bên kia sông Bằng có Kẻ Giẳng, Kế Nông.
- Rồi Cả Lọ, Co Lỳ tương ứng với Cà Lồ ở Cổ Loa.
- Rất nhiều những địa danh xung quanh thành Cổ Loa và Bản Phủ có sợi dây liên hệ và đó là những chứng tích cho ta thấy rõ mối dây liên hệ giữa kinh đô Nam Bình với kinh đô Loa Thành của Thục Phán – An Dương Vương.
- Đó là quá trình phát triển hợp lý, liên tục, có tính kế tục.
- Điều đó góp phần làm sáng tỏ và khẳng định chắc chắn giả thuyết: Thục Phán có nguồn gốc ở Cao Bằng đã tham gia vào việc thành lập nước Âu Lạc, đóng góp vào quá trình dựng nước trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử Việt Nam..
- 1 Việt sử lược, NXB Sử học, Hà Nội, 1960, tr.14..
- 2 Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr.64..
- 3 Đại Việt sử ký tiền biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr.45..
- 4 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, NXB Sử học, Hà Nội, 1961..
- 5 Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.79..
- 7 Phan Huy Lê – Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr.129..
- 8 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1964, tr.22..
- 9 Nguyễn Duy Hinh, Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương, tạp chí Khảo cổ học, số tr.144 – 145..
- 10 Nguyễn Quang Ngọc, Đóng góp của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái trong tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr.89..
- 12 Nguyễn Quang Ngọc, Đóng góp của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái trong tiến trình lịch sử Việt Nam, sđd, tr.90.