« Home « Kết quả tìm kiếm

Sáng kiến kinh nghiệm - Phương pháp giải bài toán quang hình học lớp 9


Tóm tắt Xem thử

- PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TOÁN QUANG HÌNH HỌC LỚP 9 I.
- Hơn nữa đội ngũ học sinh là một lực lượng lao động dự bị nòng cốt và thật hùng hậu về khoa học kỹ thuật, trong đó kiến thức, kỹ năng vật lý đóng góp một phần không nhỏ trong lĩnh vực này.
- Ta đã biết ở giai đoạn 1 (lớp 6 và lớp 7) vì khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, vốn kiến thức toán học chưa nhiều nên SGK chỉ đề cập đến những khái niệm, những hiện tượng vật lý quen thuộc thường gặp hàng ngày..
- Ở giai đoạn 2 (lớp 8 và lớp 9) khả năng tư duy của các em đã phát triển, đã có một số hiểu biết ban đầu về khái niệm cũng như hiện tượng vật lý hằng ngày..
- Do đó việc học tập môn vật lý ở lớp 9 đòi hỏi cao hơn nhất là một số bài toán về điện, quang ở lớp 9 mà các em HS được học vào năm thứ ba kể từ khi thay SGK lớp 9.
- Thực tế qua ba năm dạy chương trình thay sách lớp 9 bản thân nhận thấy: Các bài toán quang hình học lớp 9 mặc dù chiếm một phần nhỏ trong chương trình Vật lý 9, nhưng đây là loại toán các em hay lúng túng, nếu các em được hướng dẫn một số điểm cơ bản thì những loại toán này không phải là khó..
- Từ những lý do trên, để giúp HS lớp 9 có một định hướng về phương pháp giải bài toán quang hình học lớp 9, nên tôi đã chọn đề tài này để viết sáng kiến kinh nghiệm..
- a) Do tư duy của học sinh còn hạn chế nên khả năng tiếp thu bài còn chậm, lúng túng từ đó không nắm chắc các kiến thức, kĩ năng cơ bản, định lý, các hệ quả do đó khó mà vẽ hình và hoàn thiện được một bài toán quang hình học lớp 9..
- b) Đa số các em chưa có định hướng chung về phương pháp học lý thuyết, chưa biến đổi được một số công thức, hay phương pháp giải một bài toán vật lý..
- c) Kiến thức toán hình học còn hạn chế (tam giác đồng dạng) nên không thể giải toán được..
- d) Do phòng thí nghiệm, phòng thực hành còn thiếu nên các tiết dạy chất lượng chưa cao, dẫn đến học sinh tiếp thu các định luật, hệ quả còn hời hợt.
- Một số nhược điểm của HS trong quá trình giải toán quang hình lớp 9:.
- Một số vẽ sai hoặc không vẽ được ảnh của vật qua thấu kính, qua mắt, qua máy ảnh do đó không thể giải được bài toán..
- c) Một số chưa nắm được kí hiệu các loại kính, các đặt điểm của tiêu điểm, các đường truyền của tia sáng dặt biệt, chưa phân biệt được ảnh thật hay ảnh ảo.
- Một số khác không biết biến đổi công thức toán..
- d) Chưa có thói quen định hướng cách giải một cách khoa học trước những bài toán quang hình học lớp 9..
- Dựa vào đặc điểm của địa phương, tình hình chung của nhà trường và chất lượng học tập của học sinh trong những năm qua.
- Sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với việc sử dụng các thiết bị dạy học trực quan..
- Tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để giải quyết vấn đề và cử đại diện nhóm lên trình bày (đại diện thường là học sinh khá, giỏi.
- Ý thức học tập của học sinh chưa cao.
- Giáo viên chưa biết cách phất huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
- Giáo viên chưa kịp thời bổ sung kiến thức cơ bản cho các em học sinh bị mất kiến thức cơ bản.
- Học về nhà thiếu sự kèm cặp của phụ huynh do đó các em thường làm bài tập theo kiểu chống đối..
- Trong tất cả các nguyên nhân ở trên nguyên nhân chủ yếu dẩn đến kết quả môn toán còn hạn chế là giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học vật lí..
- Những bài toán quang hình học lớp 9 được gói gọn ở chương III từ tiết 40 đến tiết 51.
- Mặc dù các em đã học phần quang ở năm lớp 7, nhưng chỉ là những khái niệm cơ bản, cho nên những bài toán loại này vẫn còn mới lạ đối.
- với HS, mặc dù không quá phức tạp đối với HS lớp 9 nhưng vẫn tập dần cho HS có kỹ năng định hướng bài giải một cách có hệ thống, có khoa học, dễ dàng thích ứng với các bài toán quang hình học đa dạng hơn ở các lớp cấp trên sau này..
- Để khắc phục những nhược điểm đã nêu ở trên, tôi đã đưa ra một số giải pháp cần thiết cho HS bứơc đầu có một phương pháp cơ bản để giải loại bài toán quang hình lớp 9 dược tốt hơn:.
- Bài toán cho biết gì?.
- Vài học sinh đọc lại đề (dựa vào tóm tắt để đọc)..
- Ví dụ 1: Một người dùng một kính lúp có số bội giác 2,5X để quan sát một vật nhỏ AB được đặt vuông góc với trục chính của kính và cách kính 8cm..
- a) Tính tiêu cự của kính? Vật phải đặt trong khoảng nào trước kính?.
- Giáo viên cho học sinh đọc vài lần.
- Kính gì? Kính lúp là loại thấu kínhgì? Số bội giác G?.
- Vật AB được đặt như thế nào với trục chính của thấu kính?Cách kính bao nhiêu?.
- Vật AB dược đặt ở vị trí nào so với tiêu cự?.
- Bài toán cần tìm gì? Yêu cầu gì?.
- -Tìm tiêu cự? Để tính tiêu cự của kính lúp cần sử dụng công thức nào?.
- -Để nhìn rõ ảnh qua kính lúp vật phải đặt trong khoảng nào trước kính?.
- Kính lúp G = 2,5X OA = 8cm.
- Cho 2 học sinh dựa vào tóm tắt đọc lại đề.
- Để giải đúng bài toán cần chú ý cho HS đổi về cùng một đơn vị hoặc đơn vị của số bội giác phải được tính bằng cm..
- b) Để học sinh dựng ảnh, hoặc xác định vị trí của vật chính xác qua kính,mắt hay máy ảnh GV phải luôn kiểm tra, khắc sâu HS:.
- Thấu kính hội tụ, thấu kính phân kì:.
- Vật đặt vuông góc với trục chính: hoặc.
- O gọi là quang tâm của thấu kính.
- Thấu kính hội tụ:.
- Tia tới song song với trục chính cho tia ló đi qua tiêu điểm F..
- Tia tới đi qua tiêu điểm F, cho tia ló song song với trục chính..
- Thấu kính phân kì:.
- Vật kính máy ảnh là một thấu kính hội tụ..
- Thể thuỷ tinh ở mắt là một thấu kính hội tụ -Màng lưới như phim ở máy ảnh..
- Điểm cực cận: điểm gần mắt nhất mà ta có thể nhìn rõ được Kính cận là thấu kính phân kì..
- Mắt lão nhìn rõ những vật ở xa, nhưng không nhìn rõ những vật ở gần.
- Kính lão là thấu kính hội tụ.
- Mắt lão phải đeo kính hội tụ để nhìn rõ các vật ở gần..
- Kính lúp:.
- Kính lúp là thấu kính hội tụ có tiêu cự ngắn.
- Để dựng ảnh, hoặc xác định vị trí một vật qua kính lúp cần phải đặt vật trong khoảng tiêu cự của kính.
- Ảnh qua kính lúp phải là ảnh ảo lớn hơn vật.
- Dựng ảnh của vật AB qua kính lúp:.
- Ta phải đặt vật AB trong khoảng tiêu cự của kính lúp.
- c) Để trả lời phần câu hỏi định tính học sinh cần thu thập thông tin có liên quan đến nội dung, yêu cầu bài toán từ đó vận dụng để trả lời..
- Ở đây vật kính là một kính lúp cho nên vật phải đặt trong khoảng tiêu cự mới nhìn rõ được vật.
- Ảnh của vật qua thấu kính sẽ là ảnh ảo và lớn hơn vật..
- Vật đặt ngoài tiêu cự cho ảnh thật, ngược chiều.
- Vật đặt rất xa thấu kính cho ảnh thật có vị trí cách thấu kính một khoảng bằng tiêu cự..
- Vật đặt trong khoảng tiêu cự cho ảnh ảo, lớn hơn vật, cùng chiều với vật.
- Thấu kính phân kỳ:.
- Vật đặt ở mọi vị trí trước thấu kính phân kì luôn cho ảnh ảo,cùng chiều, nhỏ hơn vật và luôn nằm trong khoản tiêu cự của thấu kính..
- Vật đặt rất xa thấu kính, ảnh ảo của vật có vị trí cách thấu kính một khoảng bằng tiêu cự.
- Mắt cận nhìn rõ những vật ở gần, nhưng không nhìn rõ những vật ở xa..
- Mắt lão nhìn rõ những vật ở xa, nhưng không nhìn rõ những vật ở gần..
- Vật cần quan sát phải đặt trong khoảng tiêu cự của kính để cho một ảnh ảo lớn hơn vật.Mắt nhìn thấy ảnh ảo đó..
- Chú ý phần này là phần cốt lõi để giải được một bài toán quang hình học, nên đối với một số HS yếu toán hình học thì GV thường xuyên nhắc nhở về nhà rèn luyện thêm phần này.
- Một số HS mặc dù đã nêu được các tam giác đồng dạng , nêu được một số hệ thức nhưng không thể biến đổi suy ra các đại lượng cần tìm.
- Sau đó giao nhiệm vụ cho một số em khá trong tổ, nhóm giảng giải, giúp đỡ để cùng nhau tiến bộ..
- e) Hướng dẫn HS phân tích đề bài toán quang hình học một cách lôgich, có hê thống:.
- Ví dụ 2: Đặt vật AB cao 12cm vuông góc với trục chính của một thấu kính hội tụ (A nằm trên trục chính) và cách thấu kính 24cm thì thu được một ảnh thật cao 4cm.
- Tính khoảng cách từ ảnh đến thấu kính và tính tiêu cự của thấu kính..
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán, sau đó tổng hợp lại rồi giải:.
- Để hướng dẫn HS phân tích, tìm hiểu bài toán phải cho HS đọc kỷ đề, ghi tóm tắt sau đó vẽ hình..
- TK hội tụ.
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán:.
- Khoảng cách từ ảnh đến thấu kính hội tụ là:.
- Tiêu cự của thấu kính:.
- Sau gần hai tháng áp dụng các giải pháp đã nêu tôi thấy kết quả HS giải bài toán "Quang hình học lớp 9".
- Đa số các HS yếu đã biết vẽ hình, trả lời được một số câu hỏi định tính.
- Tất cả các HS đã chủ động khi giải loại toán này, tất cả các em đều cảm thấy thích thú hơn khi giải một bài toán quang hình học lớp 9..
- Qua kết quả trên đây, hy vọng lên cấp III các em sẽ có một số kỹ năng cơ bản để giải loại toán quang hình học này.
- Để giúp HS hứng thú và đạt kết quả tốt trong việc giải toán quang hình học lớp 9, điều cơ bản nhất mỗi tiết dạy giáo viên phải tích cực, nhiệt tình,.
- Những tiết lý thuyết, thực hành cũng như tiết bài tập GV phải chuẩn bị chu đáo bài dạy, hướng dẫn HS chuẩn bị bài theo ý định của GV, có như vậy GVmới cảm thấy thoải mái trong giờ giải và sửa các bài tập quang hình học từ đó khắc sâu được kiến thức và phương pháp giải bài tập của HS..
- Thường xuyên nhắc nhở các em yếu, động viên, biểu dương các em khá giỏi, cập nhật vào sổ theo dõi và kết hợp với GV chủ nhiệm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời, kiểm tra thường xuyên vở bài tập vào đầu giờ trong mỗi tiết học, làm như vậy để cho các em có một thái độ đúng đắn, một nề nếp tốt trong học tập..
- Đối với một số HS chậm tiến bộ thì phải thông qua GVCN kết hợp với gia đình để giúp các em học tốt hơn, hoặc qua GV bộ môn toán để giúp đỡ một số HS yếu toán có thể giải được một vài bài toán đơn giản về điện lớp 9..
- Qua hai tháng áp dụng phương pháp giải bài tập quang hình học ở trên trong dạy học tôi nhận thấy HS say mê, hứng thú và đã đạt hiệu quả cao trong giải bài tập nhất là bài tập quang hình học 9.
- Học sinh đã phát huy tính chủ động, tích cực khi nắm được phương pháp giải loại bài toán này..
- Trên đây tôi đã trình bày những suy nghĩ của mình về một số phương pháp giải bài tập quang hình 9 một cách hiệu quả.
- Tạo mối liên kết chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh..
- Cần giám sát chặt chẽ việc học tập của con em mình, tránh tình trạng học sinh đi học mà không tới lớp..
- Thường xuyên liên hệ với giáo viên và nhà trường để biết được tình hình học tập của con em mình.