« Home « Kết quả tìm kiếm

Sinh sản nhân tạo cá trê Phú Quốc (Clarias gracilentus Ng, Hong & Tu, 2011) bằng các chất kích thích khác nhau


Tóm tắt Xem thử

- SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ TRÊ PHÚ QUỐC (Clarias gracilentus NG, HONG &.
- TU, 2011) BẰNG CÁC CHẤT KÍCH THÍCH KHÁC NHAU.
- Kích thích sinh sản, cá trê Phú Quốc, Clarias gracilentus Keywords:.
- Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá sự thành thục và khả năng kích thích sinh sản loài này trong điều kiện nuôi giữ.
- Cá bố mẹ có khối lượng trung bình g được nuôi trong hệ thống nước tuần hoàn và cho ăn bằng thức ăn viên (chứa 41% đạm) trong 8 tháng trước khi tiến hành kích thích sinh sản.
- Chất kích thích sinh sản sử dụng trong thí nghiệm bao gồm đơn chất kích thích như não thùy thể cá chép (CP), hCG (human chorionic gonadotropin), Ovaprim, LHRHa (Luteinizing Hormone - Releasing Hormone analogue) hay kết hợp giữa não thùy thể với Ovaprim, hCG hoặc LHRHa.
- Kết quả thí nghiệm cho thấy đối với đơn chất kích thích thì não thùy thể, hCG hay LHRHa đều kích thích quá trình chín và rụng trứng, trong đó cá đáp ứng tốt với liều đơn não thùy thể (8 mg/kg khối lượng thân cá cái) với tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở tương ứng là and 69,1±11,2%.
- Trong các nghiệm thức sử dụng kết hợp não thùy thể với các chất kích thích khác thì cá được tiêm 2 liều cách nhau 8 giờ, trong đó liều sơ bộ với 2 mg não thùy/kg và liều quyết định với 4.000 IU hCG/kg cho kết quả cao nhất về tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở.
- Sử dụng chất kích thích trong sinh sản nhân tạo thường được thực hiện trên các loài cá không thể tự sinh sản trong điều kiện nuôi giữ.
- Hơn nữa, đây còn là một ứng dụng quan trọng trong thực tế sản xuất giống qui mô công nghiệp thậm chí với các loài có khả năng sinh sản trong điều kiện nuôi..
- Trong các trại sản xuất cá giống, kích thích rụng trứng bằng hormon là giải pháp để giúp nhiều cá thể sinh sản cùng thời điểm để thu được một lượng lớn cá bột (Ayson, 1991).
- Kích thích sinh sản còn là một bước quan trọng trong tiến trình thuần hóa một loài mới trong nuôi trồng thủy sản (Liao và Huang, 2000)..
- Kỹ thuật kích thích sinh sản nhân tạo trong điều kiện nuôi đã thành công trên nhiều loài cá trê thuộc giống Clarias như trên cá trê đen Clarias fuscus (Young et al., 1989), cá trê trắng C.
- Sahoo et al., 2008), cá trê xám C.
- meladerma (Sumastri et al., 1994, Lenormand et al., 1999) cá trê vàng C..
- teijsmanni (Lenormand et al., 1999), và cá trê Phi C..
- Các chất kích thích (và liều lượng) gây chín và rụng trứng thành công trên cá trê có thể kể đến như não thùy thể cùng loài hoặc khác loài (4 - 6 mg.kg -1.
- Trong các loại chất kích thích thì hCG và GnRHa + PIM cho kết quả tỉ lệ rụng trứng cao (95 - 100.
- trong khi não thùy thể kích thích quá trình chín và rụng trứng rất tốt trên nhiều loài cá trê (Legendre et al., 1996.
- Mùa vụ sinh sản ngoài tự nhiên của cá trê Phú Quốc là đầu mùa mưa (tháng 5) kéo dài đến tháng 7 hàng năm.
- kích cỡ cá tham gia sinh sản ngoài tự nhiên là 40 cm với sức sinh sản.
- Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm ra loại kích thích tố và phương thức phù hợp để kích thích sinh sản cá trê Phú Quốc, cung cấp dẫn liệu góp phần xây dựng qui trình sản xuất giống nhân tạo giải quyết nhu cầu con giống cho người nuôi..
- Cá được nuôi vỗ khoảng 8 tháng trước khi tiến hành thí nghiệm sinh sản.
- cá đực có gai sinh dục dài, nhọn và có màu hồng ở mút gai sinh dục để kích thích sinh sản.
- Thí nghiệm được tiến hành với 2 nhóm chất kích thích là gonadotropin (GtH) và gonadotropin releasing hormone (GnRH) và bằng 2 phương thức: sử dụng đơn chất kích thích và sử dụng kết hợp 2 chất kích thích.
- Bốn loại chất kích thích sử dụng trong thí nghiệm bao gồm (i) nhóm GtH có não thùy thể cá chép (bảo quản trong aceton - sản phẩm thương mại) và hCG (Công ty Cổ phần dịch vụ NTTS Hạ Long.
- Liều lượng và phương thức kích thích sinh sản được trình bày trong Bảng 1 và Bảng 2..
- Bảng 1: Liều lượng và số lần tiêm trong thí nghiệm sử dụng đơn chất kích thích.
- Nghiệm thức Chất kích thích Liều sơ bộ Liều quyết định.
- 8 mg.kg -1.
- Bảng 2: Liều lượng và số lần tiêm trong thí nghiệm sử dụng kết hợp não thùy thể với chất kích thích khác Nghiệm thức Chất kích thích Liều sơ bộ Liều quyết định.
- Thời gian giữa liều sơ bộ và liều quyết định là 8 giờ 2.3 Phương pháp kích thích sinh sản Thí nghiệm được thực hiện với 5 cá cái cho mỗi nghiệm thức.
- Chất kích thích được tiêm vào cơ lưng.
- Tỉ lệ rụng trứng của cá cái, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở và tỉ lệ dị hình của cá bột là các chỉ số đánh giá kết quả kích thích sinh sản.
- Tỉ lệ rụng trứng.
- Tỉ lệ thụ tinh.
- Tỉ lệ sống.
- Tỉ lệ sống được xác định vào thời điểm cá hết noãn hoàng.
- Sức sinh sản thực tế được tính là số lượng trứng thu được chia cho khối lượng cá trước khi kích thích sinh sản (trứng.kg -1.
- Khối lượng trung bình của cá sau 8 tháng nuôi là g với tỉ lệ sống trung bình .
- Tỉ lệ thành thục của cá cái đạt dao động từ 66,7 đến 80.
- Điều này có thể dễ dàng nhận thấy sau khi thay nước hay kiểm tra chọn cá cho sinh sản.
- (2001), cho rằng việc nuôi vỗ cá trê C.
- nhất vài tuần trước khi kích thích sinh sản là cần thiết để có kết quả sinh sản tốt..
- 3.2 Kích thích sinh sản nhân tạo.
- 3.2.1 Sử dụng một loại chất kích thích sinh sản Kết quả sinh sản nhân tạo bằng một loại chất kích thích (Bảng 3) cho thấy não thùy thể cá chép, hCG và LHRHa đều kích thích quá trình chín và rụng trứng ở cá trê Phú Quốc với tỉ lệ rụng trứng từ 60 – 100%.
- Trong đó, não thùy thể cho tỉ lệ rụng trứng 100%, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ sống của cá bột cao nhất so với hCG và LHRHa, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Tỉ lệ nở trong nghiệm thức sử dụng não thùy thể và LHRHa cao hơn và khác biệt có ý nghĩa so với việc sử dụng hCG.
- Trong khi đó, sử dụng Ovaprim với liều 0,5 mL.kg -1 không gây chín và rụng trứng trên cá trê Phú Quốc.
- Bảng 3: Kết quả sinh sản nhân tạo cá trê Phú Quốc bằng đơn chất kích thích NT Tỉ lệ rụng.
- ứng (giờ) Sức sinh sản.
- thực tế (trứng/kg) Tỉ lệ thụ tinh.
- Tỉ lệ nở.
- Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kế (p<0,05) Kết quả sinh sản cá trê Phú Quốc bằng một loại.
- chất kích thích trong thí nghiệm này tương tự với các kết quả kích thích sinh sản bằng não thùy thể (Mollah and Tan, 1983.
- 1988), hCG và LHRHa trên cá trê vàng C.
- Các kết quả kích thích sinh sản cá trê vàng cho thấy hCG và LHRHa + pimozide (PIM) cho tỉ lệ rụng trứng từ 95% đến 100%.
- Các sản phẩm thương mại chứa GnRHa và chất ức chế dopamin như Ovaprim hay Ovatide với liều 0,5 mL.kg -1 được sử dụng thành công trong kích thích sinh sản cá trê vàng C.
- macrocephalus, cá trê Phi C..
- Tambasen-Cheong et al., 1995), tuy nhiên khi sử dụng Ovaprim với liều 0,5 mL.kg -1 không gây rụng trứng trên cá trê Phú Quốc.
- Điều này có lẽ là do lượng GnRH không đủ kích thích quá trình chín và rụng trứng.
- hợp nhất cho kích thích sinh sản cá trê trắng C.
- Não thùy thể được xem là chất kích thích quá trình chín và rụng trứng được sử dụng sớm nhất và có hiệu quả trên nhiều loài cá trơn.
- Trong nghiên cứu này, với 1 liều 8 mg.kg -1 kích thích rụng trứng cá trê Phú Quốc với tỉ lệ 100%.
- Kết quả này phù hợp với sinh sản nhân tạo đối với nhóm cá trơn, liều não thùy thể từ 4-6 mg.kg -1 kích thích rụng trứng thành công trên cá trê phi C.
- Bên cạnh đó, não thùy thể còn kích thích quá trình thành thục của buồng tinh cá đực, làm gia tăng hàm lượng LH trong máu, gây nên sự gia tăng dịch thể trong buồng tinh tạo sự thuận lợi cho việc thu tinh trùng cá đực trong sinh sản nhân tạo (Zohar và Mylonas, 2001.
- cá trê Phi C.
- Tuy nhiên, việc sử dụng não thùy thể có nhiều bất cập như sự khác biệt về LH trong não thùy của các loài cá cho não, khó định lượng chính xác và trong thực tế liều lượng kích thích sinh sản có sự chênh lệch lớn.
- Để kích thích rụng trứng ở cá trê Phi C.
- longifilis, liều não thùy thích hợp là 4-6 mg.kg -1 (Legendre et al., 1996), nhưng để sinh sản cá trê.
- 3.2.2 Sử dụng kết hợp não thùy với chất kích thích sinh sản khác.
- Kết hợp não thùy thể ở liều tiêm sơ bộ và một chất kích thích khác (hCG, LHRHa hoặc Ovaprim) ở liều quyết định có kết quả cải thiện hơn về tỉ lệ rụng trứng và tỉ lệ thụ tinh như trình bày trong Bảng 4..
- Bảng 4: Kết quả sinh sản cá trê Phú Quốc sử dụng kết hợp não thùy thể với chất kích thích khác NT Tỉ lệ rụng.
- Chỉ có 1 lô cá nở Kết quả từ Bảng 4 cho thấy tỉ lệ rụng trứng đạt.
- Nghiệm thức tiêm não thùy thể 2 mg.kg -1 ở liều sơ bộ và hCG 4.000 IU.kg -1 ở liều quyết định cho kết quả tốt nhất với tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở và tỉ lệ sống của cá bột đạt tương ứng là và 52,8%.
- Trong thí nghiệm sử dụng đơn chất kích thích, liều 0,5 mL.kg -1 của Ovaprim không gây rụng trứng nhưng trong thí nghiệm này kết quả rụng trứng đạt 60% khi kết hợp 2 mg não thùy thể với 1 mL.kg -1 , tuy nhiên tỉ lệ nở rất thấp và cá bột chết trước khi hết noãn hoàng.
- Thời gian hiệu ứng ở các nghiệm thức là khoảng 18 giờ, dài hơn so với thí nghiệm trước do nhiệt độ nước trong thời gian tiến hành sinh sản thấp hơn, dao động từ 28-30 o C..
- Kết hợp não thùy với chất kích thích khác trong sinh sản nhân tạo các loài cá trơn đã được báo cáo thành công trên cá trê trắng C.
- Trong nghiên cứu này, kết quả kích thích sinh sản cá trê Phú Quốc bằng cách kết hợp não thùy với chất kích thích khác cũng tương tự như kết quả đạt được trên cá trê trắng.
- Đối với cá trê trắng, khi kết hợp não thùy với hCG thì tỉ lệ rụng trứng là 80%, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở lần lượt là 60,5% và 50,7%;.
- trường hợp sử dụng não thùy và Ovaprim thì tỉ lệ rụng trứng, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở lần lượt là và 40,3% (Taslima và Ahmed, 2012)..
- Mặc dù, kết quả kích thích rụng trứng đạt tỉ lệ cao trong các nghiệm thức sử dụng não thùy thể,.
- trong cả 2 thí nghiệm, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở và tỉ lệ sống của cá bột khá thấp.
- Các nguyên nhân làm giảm tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ sống của cá trê Phú Quốc có thể là: (i) việc sử dụng não thùy thể kích thích cá trê sinh sản giúp cho việc vuốt trứng dễ dàng điều này dẫn đến việc vuốt trứng quá sớm khi trứng “chưa chín” kết quả là làm giảm tỉ lệ thụ tinh và tăng tỉ lệ phôi dị hình, hiện tượng này đã ghi nhận được trên cá trê Phi C..
- 3.3 Kích thước trứng và sức sinh sản Kết quả khảo sát kích thước trứng của cá trê Phú Quốc trong cả 2 thí nghiệm cho thấy, trước khi kích thích sinh sản đường kính trứng trung bình là 1,81±0,11 mm và sau khi rụng kích thước trứng gia tăng đến 2,02±0,23 mm.
- Trước khi tiêm chất kích thích sinh sản, đối với nhóm cá sinh sản thành công.
- Đối với nhóm cá được kích thích sinh sản thành công bằng 2 liều tiêm, sau liều tiêm sơ bộ, kích thước tăng lên 1,86±0,12 mm và tần số xuất hiện của nhóm trứng có kích thước từ 1,8-2,0 mm chiếm 67,7%..
- Sức sinh sản thực tế của cá trê Phú Quốc trong thí nghiệm sử dụng đơn chất kích thích cao nhất là trứng.kg -1 ở nghiệm thức não thùy thể và thấp nhất là trứng.kg -1 ở nghiệm thức LHRHa.
- dụng kết hợp với não thùy thì nghiệm thức sử dụng hCG (4.000 IU) cho sức sinh sản cao hơn có ý nghĩa thống kê trứng.kg -1 ) so với nghiệm thức sử dụng Ovaprim trứng.kg -1.
- Nhìn chung, cá được kích thích bằng GtH có sức sinh sản thực tế cao hơn nhóm được kích thích bằng GnRHa, tuy nhiên, trừ các nghiệm thức sử dụng Ovaprim, sức sinh sản thực tế giữa các nghiệm thức còn lại không có sự khác biệt thống kê (p>0,05).
- Sức sinh sản và kích thước trứng của cá trê Phú Quốc so với một số loài cá trê khác thuộc giống Clarias được trình bày trong Bảng 5..
- Bảng 5: Sức sinh sản và kích thước trứng của một số loài cá trê thuộc giống Clarias.
- Loài cá Sức sinh sản.
- kích thước trứng và sức sinh sản có mối tương quan nghịch, cá có kích thước trứng nhỏ thì có sức sinh sản cao hơn cá có kích thước trứng to.
- Cá trê Phú Quốc có kích thước trứng lớn nhất, nên sức sinh sản sẽ thấp hơn khi so sánh với cá trê vàng hay trê Phi..
- Cá trê Phú Quốc thích ứng tốt và có khả năng thành thục trong điều kiện nuôi của trại sản xuất giống với tỉ lệ thành thục trên 75%..
- Não thùy thể, hCG và LHRHa đều có khả năng kích thích rụng trứng ở cá trê Phú Quốc, trong đó phương pháp tiêm 2 liều sử dụng kết hợp não thùy (2 mg.kg -1 ) và hCG (4.000 IU.kg -1 ) cho kết quả tốt nhất.
- Sức sinh sản thực tế của cá trê Phú Quốc trong khoảng trứng.kg -1 khối lượng thân cá cái với kích thước trứng trung bình 2,02 mm..
- Tỉ lệ nở và tỉ lệ sống thấp của cá trê Phú Quốc có thể liên quan đến chế độ dinh dưỡng của cá bố mẹ cần có các nghiên cứu phát triển thức ăn nuôi vỗ cá bố mẹ loài này..
- Nghiên cứu bước đầu về đặc điểm sinh học của cá trê Phú Quốc (Clarias gracilentus Ng, Dang &