« Home « Kết quả tìm kiếm

So sánh một số chỉ tiêu sinh sản giữa các nguồn cá trê vàng (Clarias macrocephalus)


Tóm tắt Xem thử

- SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN GIỮA CÁC NGUỒN CÁ TRÊ VÀNG (Clarias macrocephalus).
- Ảnh hưởng con mẹ, cá trê vàng, lai chéo, nguồn cá, sinh sản.
- Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của các nguồn cá cá trê vàng bố mẹ đến các chỉ tiêu sinh sản và sự phát triển của cá bột.
- Ba nguồn cá bố mẹ gồm 2 nguồn cá tự nhiên ở Cà Mau (CM) và Long An (LA) và nguồn 1 nuôi ở Cần Thơ (CT) được nuôi vỗ ba tháng.
- Kết quả cho thấy cá cái CM có sức sinh sản thực tế thấp nhất (25.700 trứng/kg) nhưng đường kính trứng lớn nhất (1,77 mm), khác biệt có ý nghĩa (P<0,01) so với cá LA và CT (tương ứng 57.000 đến 60.800 trứng/kg và 1,68 mm).
- Tỉ lệ thụ tinh (TLTT và tỉ lệ nở (TLN chịu ảnh hưởng bởi nguồn cá cái (P<0,01 cho TLN) nhưng khác biệt không có ý nghĩa giữa các nguồn cá đực (P>0,05).
- TLTT và TLN cao nhất ở nguồn cá cái CM.
- Kích cỡ cá bột lúc nở và trong 5 ngày đầu khác biệt thống kê (P<0.01) giữa các nguồn cá cái, nguồn cá đực và 9 tổ hợp.
- TLTT, TLN và kích cỡ cá bột khác biệt không có ý nghĩa giữa tổ hợp thuần và lai trong cùng một nguồn cá cái (P>0,05)..
- So sánh một số chỉ tiêu sinh sản giữa các nguồn cá trê vàng (Clarias macrocephalus).
- Cá trê vàng (Clarias macrocephalus) là loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao và là đối tượng nuôi quan trọng ở Việt Nam cùng một số nước Đông Nam Á khác (Na-Nakorn and Brummett, 2009).
- Ở Đồng bằng sông Cửu Long, cá trê vàng đã được sản xuất giống và nuôi thành công từ những năm 1980, song phong trào ít phát triển so với cá trê vàng lai (C.
- Tại những thời điểm nuôi cá trê lai phát triển mạnh (Dương Thúy Yên và ctv., 2017), cá trê vàng chủ yếu được nuôi để phục vụ cho sản xuất giống cá trê lai.
- Tuy nhiên, do loài cá này là nguồn thực phẩm được ưa chuộng và trước thực trạng nguồn lợi tự nhiên ngày càng cạn kiệt (Lê Nguyễn Ngọc Thảo và ctv., 2017), rất cần thiết có những nghiên cứu cải thiện hiệu quả trong ương, nuôi cá trê vàng.
- Trong chọn giống thuỷ sản, thông tin về các chỉ tiêu sinh sản từ các nguồn cá bố mẹ khác nhau là cần thiết vì những chỉ tiêu này thường biến động giữa các dòng, các quần thể trong cùng một loài (Dunham, 2011).
- Thông tin về các chi tiêu sinh sản của cá trê vàng đã được nhiều tài liệu đề cập (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009.
- Dương Nhựt Long và ctv., 2014) nhưng sự khác biệt giữa các nguồn cá bố mẹ đến các chi tiêu trên chưa được báo cáo.
- Vì vậy, nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của các nguồn cá trê vàng bố mẹ có nguồn gốc nuôi và tự nhiên đến các chi tiêu sinh sản và sự phát triển ban đầu của đàn con, để cung cấp thông tin cho chương trình chọn giống cá trê vàng..
- 2.1 Nguồn cá thí nghiệm và nuôi vỗ.
- Nguồn cá trê vàng được chọn gồm: (i) cá tự nhiên thu từ vườn Quốc gia U Minh Hạ, Cà Mau (CM).
- 2.2 Đánh giá các chỉ tiêu sinh sản và lai chéo của 3 nguồn cá trê vàng.
- Chuẩn bị cho cá sinh sản: chọn được 9 cặp cá trê vàng từ mỗi nguồn Cà Mau và Cần Thơ (riêng nguồn Long An có 6 cặp) có độ thành thục tốt để chuẩn bị cho sinh sản.
- Cá được chọn dựa vào đặc điểm bên ngoài: cá cái có bụng to mềm, lỗ sinh dục màu hồng và có hình vành khăn.
- Sau đó, cá được kích thích sinh sản..
- Kích thích nhân tạo cá trê vàng: cá bố mẹ được kích thích sinh sản bằng hormone HCG kết hợp với não thùy cá chép.
- Đối với cá cái, hormone được tiêm hai liều: liều sơ bộ dùng HCG với liều 500 UI/kg cá cái.
- Khoảng 7 – 8 giờ sau, cá cái được tiêm liều quyết định với liều 3.500 UI (HCG) và 2 mg não thùy.
- Liều lượng kích thích tố đều sử dụng như nhau cho cả ba nguồn cá..
- Bảng 1: Các tổ hợp sinh sản Nguồn cá đực.
- Nguồn cá cái Cà Mau.
- Các chỉ tiêu sinh sản được thu gồm: tỉ lệ cá sinh sản, sức sinh sản thực tế, kích thước trứng sau thụ tinh, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở, được tính theo các công thức sau:.
- Tỉ lệ cá sinh sản.
- Sức sinh sản thực tế (trứng/kg cá cái.
- Số lượng trứng cá sinh sản /khối lượng cá sinh sản (kg)..
- Tỉ lệ thụ tinh.
- Tỉ lệ nở.
- Ảnh hưởng của nguồn cá và kích cỡ con cái cùng với sự tương tác của hai yếu tố này lên các chỉ tiêu sinh sản và kích thước cá bột được phân tích bằng phương pháp “General linear models”.
- Khi ảnh hưởng của nguồn cá có ý nghĩa (P<0.05), sự khác biệt giữa các nguồn cá được kiểm định bằng phương pháp phi tham số “Dunn test” và giá trị p được điều chỉnh cho so sánh nhiều nhóm theo phương pháp Benjamini-Hochberg (Dinno, 2015).
- Tỉ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở được phân tích giữa hai yếu tố là nguồn cá cái và nguồn cá đực, tương tự như phương pháp nêu trên.
- 3.1 So sánh một số chỉ tiêu sinh sản của 3 nguồn cá trê vàng.
- Đa số cá cái tự nhiên ở Cà Mau và Long An rụng trứng sớm hơn cá nuôi ở Cần Thơ, tuy thời gian chênh lệch không đáng kể (trong một giờ)..
- Giữa các loài cá trê, thời gian hiệu ứng cũng khác nhau, so với cá trê vàng là 11 – 12 giờ, cá trê Phú Quốc lâu hơn, 16 – 17 giờ ở nhiệt độ 29 – 30 o C (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2015)..
- Bảng 2: Thời gian hiệu ứng, tỉ lệ rụng trứng, sức sinh sản tương đối và thời gian phát triển phôi của 3 nguồn cá trê vàng.
- Khối lượng cá cái (g) 247 ± 59 b 231 ± 61 b 162 ± 20 a.
- Tỉ lệ sinh sản.
- Sức sinh sản (trứng/kg a b b.
- Tỉ lệ cá rụng trứng ở ba nguồn cá dao động từ Bảng 2).
- Tỉ lệ ở mức cao, tương đương với nghiên cứu khác trên cá trê vàng, tỉ lệ rụng trứng đạt .
- Tỉ lệ rụng trứng cao nhất ở nguồn cá Long An.
- 3.1.2 Sức sinh sản và đường kính trứng sau khi thụ tinh của ba nguồn cá cái trê vàng.
- Cá cái tham gia sinh sản có khối lượng từ 124 g đến 335 g, cá Cà Mau và Cần Thơ lớn hơn có ý nghĩa so với cá Long An (P<0,01) (Bảng 2).
- Mỗi con có số trứng vuốt được dao động từ 4.200 đến 19.900 trứng, tương đương với trứng/kg cá cái.
- Kết quả này có khoảng dao động lớn hơn so với những báo cáo trước, sức sinh sản của cá trê vàng thường dao động trứng/kg cá cái (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009;.
- Sức sinh sản thực tế của ba nguồn cá khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05), trong đó thấp nhất là nguồn cá Cà Mau (trung bình ~ 25.700 trứng/kg cá cái) và cao nhất là nguồn cá Cần Thơ.
- 60.800 trứng/kg cá cái).
- Sức sinh sản của cá Long An.
- 57.000 trứng/kg cá cái) khác biệt không có ý nghĩa so với cá Cần Thơ (P>0,05).
- Trong cùng một nguồn cá (NC), khối lượng cá cái (Wc) có ảnh hưởng đến sức sinh sản P>0,05) nhưng không giống nhau giữa các nguồn, nghĩa là có sự tương tác có ý nghĩa (P NCxWc <0,05) giữa khối lượng cá cái và nguồn cá lên sức sinh sản thực tế của cá (Hình 1).
- Cá Cà Mau và Cần Thơ có xu hướng giảm sức sinh sản thực tế khi khối lượng tăng (tương ứng giảm 230 và 730 trứng/kg cá cái cho mỗi 10 g tăng về khối lượng) và cá Long An có xu hướng ngược lại.
- Ở cá rô đồng, mối quan hệ nghịch giữa khối lượng cá cái và sức sinh sản tương sản tương đối (số trứng trong buồng trứng ở giai đoạn IV/kg cá cái) thể hiện chặt chẽ hơn (hệ số gốc.
- Hình 1: Sức sinh sản thực tế của ba nguồn cá trê với khối lượng cá cái khác nhau Đường kính trứng trong nghiên cứu này được đo.
- Kết quả này cao hơn so với các báo cáo trước, đường kính trứng cá trê từ mm (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009;.
- Đường kính trứng khác biệt có ý nghĩa giữa ba nguồn cá (P<0,01).
- Cá cái có khối lượng càng cao đường kính trứng càng lớn nhưng với mức độ tăng rất nhỏ (hệ số gốc = 3,5 x 10 -4 .
- P<0,01) và khác nhau giữa các nguồn cá (tương tác.
- Đường kính trứng cũng có mối quan hệ tỉ lệ nghịch nhưng ở mức rất nhỏ với sức sinh sản của cá cái (hệ số gốc.
- Mối quan hệ nghịch này càng thể hiện rõ khi so sánh giữa 3 nguồn cá cái.
- Cá Cà Mau có sức sinh sản thực tế thấp nhất nhưng kích thước trứng cao nhất, khác biệt rất có ý nghĩa (P<0,01) so với hai nguồn cá Cần Thơ và Long An.
- Mối quan hệ trên gọi là mối quan hệ bù trừ (trade-off), có ý nghĩa về mặt sinh học và tiến hóa, cá cái “đầu tư” năng lượng cho số lượng trứng nhiều phải “hy sinh” giảm kích thước trứng với mục tiêu tăng số lượng đàn con và kết quả là cá sẽ có kích thước trứng tối ưu (Einum and Fleming, 2000.
- Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở ở chín tổ hợp sinh sản Tỉ lệ thụ tinh (TLTT) trung bình của chín tổ hợp sinh sản (Hình 2) là N=57) và không có sự khác biệt thống kê giữa các nguồn cá cái.
- Trong cùng một nguồn cá cái, tổ hợp thuần có TLTT (trung bình cao hơn tổ hợp lai nhưng không có ý nghĩa (P=0,14).
- Kết quả khác biệt lớn nhưng không có ý nghĩa thống kê giữa các nguồn cá cái hay giữa tổ.
- Hình 2: Tỉ lệ thụ tinh ở các tổ hợp lai giữa ba nguồn cá Cà Mau (CM), Cần Thơ (CT) và Long An (LA) Tỉ lệ nở trung bình của các gia đình đạt 67,3±.
- TLN khác biệt có ý nghĩa giữa các nguồn cá cái (P=0.017) nhưng không khác biệt thống kê theo nguồn cá đực (P=0,79) hay theo tổ hợp lai (P=0,38)..
- Giữa các nguồn cá cái, TLN cao nhất ở cá cái Cà Mau (79,0±20,1.
- khác biệt có ý nghĩa so với hai nguồn cá Cần Thơ và Long An (60,7±30,0.
- Trong cùng nguồn cá cái, các tổ hợp thuần và lai có TLN tương đương nhau (tương ứng là 66,0% và 68,8%)..
- Theo Nguyễn Văn Kiểm và Lam Mỹ Lan (2017), cá trê.
- vàng trong thí nghiệm các loại kích thích tố sinh sản khác nhau, cho TLTT và TL nở dao động trong khoảng tương ứng và .
- Trên cá trê phi, TLN được báo cáo tương đối thấp, từ 28,4% đến 59,1% (de Graaf et al., 1995).
- Kết quả này được giải thích là do các nguồn cá cùng một loài, chúng không có cơ chế cách ly sinh sản dẫn đến TLTT và TLN thấp như lai khác loài (Dunham, 2011)..
- Hình 3: Tỉ lệ nở ở các tổ hợp lai giữa ba nguồn cá Cà Mau (CM), Cần Thơ (CT) và Long An (LA) (Ghi chú: nguồn cá cái có chữ theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa, P>0,05).
- Nguồn cá cái.
- Trong ương nuôi cá trê vàng, người ta thường cho cá ăn ngoài từ 3 ngày sau khi nở (Dương Nhựt Long và ctv., 2014).
- Nguồn cá cái ảnh hưởng rất có ý nghĩa (P<0,01) đến kích cỡ cá mới nở.
- Tổ hợp từ cá cái Cà Mau có chiều dài mới nở lớn nhất (trung bình 3,57±0,07 mm), phù hợp với kích thước trứng lớn nhất so với cá Cần Thơ (3,47±0,1 mm) và Long An mm)..
- hướng chung trong thời gian theo dõi, ảnh hưởng của nguồn cá cái và cá đực lên tăng trưởng của đàn con là rất có ý nghĩa (P<0,01), chúng đều thể hiện xu hướng cá Cà Mau >.
- Trong cùng một nguồn cá cái, không có sự khác biệt thống kê giữa cá thuần và cá lai (P=0,81)..
- Dưới ảnh hưởng của con mẹ, các tổ hợp sinh sản từ nguồn cá cái Cà Mau có kích thước trứng lớn nhất, kích thước cá bột với nở cũng như tăng trưởng của cá trong 5 ngày đầu đều cao hơn so với hai nguồn cá còn lại.
- Ở cá trê vàng, nghiên cứu này chỉ theo dõi cá trong năm ngày nên chưa xác định được thời gian ảnh hưởng.
- Hình 4: Chiều dài trung bình của cá ở các tổ hợp sinh sản từ ba nguồn cá cái từ khi mới nở đến 5 ngày tuổi.
- Các chỉ tiêu sinh sản gồm tỉ lệ sinh sản, sức sinh sản, kích thước trứng, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở khác biệt giữa các nguồn cá bố mẹ, chủ yếu là ảnh hưởng của con cái.
- Cá cái ở Cà Mau có sức sinh sản thực tế thấp nhất, song có nhiều ưu điểm về tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở, đường kính trứng, chiều dài cá mới nở và sự phát triển của cá con trong năm ngày đầu.
- Sức sinh sản tương đối có xu hướng tỉ lệ nghịch với kích cỡ cá cái và đường kính trứng..
- Cùng một nguồn cá cái dù có sự khác biệt lớn về kích cỡ giữa các cá thể nhưng không có sự khác biệt thống kê về một số chỉ tiêu sinh sản và kích cỡ của cá con giữa tổ hợp lại thuần và lai chéo..
- Nghiên cứu cần tiếp tục trên các nguồn cá trê vàng khác nhau và với số mẫu nhiều hơn để có đủ thông tin phục vụ cho chương trình chọn giống cá trê vàng..
- Mối quan hệ giữa kích cỡ và các chỉ tiêu sinh sản của cá rô đầu vuông (Anabas testudineus).
- Quá trình phát triển của nghề nuôi cá trê lai ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và nhận thức của người nuôi về vấn đề con lai.
- Hiện trạng khai thác cá trê vàng (Clarias macrocephalus) ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Sử dụng Domperidon và 17, 20 P kích thích cá trê vàng (Clarias macrocephalus GUNTHER, 1864) sinh.
- Sinh sản nhân tạo cá trê Phú Quốc (Clarias gracilentus Ng, Hong &