« Home « Kết quả tìm kiếm

Soạn bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí


Tóm tắt Xem thử

- Soạn bài LỚP 12: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ 1.
- Soạn bài lớp 12: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí mẫu 1.
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng, đạo lí trong cuộc đời.
- Tư tưởng đạo lí trong cuộc đời bao gồm:.
- Lí tưởng (lẽ sống)..
- Mối quan hệ giữa con người với con người (cha mẹ, vợ chồng, anh em,và những người thân thuộc khác) ở ngoài xã hội có các quan hệ trên dưới, đơn vị, tình làng nghĩa xóm, thầy trò, bạn bè.….
- Yêu cầu làm bài văn về về tư tưởng đạo lí.
- Hiểu đựoc vấn đề cần nghị luận, ta phải qua bước phân tích, giải đề, xác định được vấn đề, với đề trên đây ta thực hiện..
- Hiểu được vấn đề nghị luận là gì?.
- Muốn tìm thấy các vấn đề cần nghị luận, ta phải qua các bước phân tích, giải đề xác định được vấn đề, với đề trên đây ta thực hiện..
- Sống có lí tưởng đúng đắn, cao cả, phù hợp với thời đại, xác định vai trò trách nhiệm..
- Có hành động đúng đắn..
- Suy ra: Sống đẹp là sống có lí tưởng đúng đắn, cao cả, cá nhân xác định được vai trò trách nhiệm với cuộc sống, có đời sống tình cảm hài hoà phong phú, có hành động đúng đắn..
- Câu thơ nêu lên lí tưởng và hành động và hướng con người tới hành động để nâng cao giá trị, phẩm chất của con người..
- Từ vấn đề nghị luận xác định người viết tiếp tục phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí bàn bạc, so sánh bãi bỏnghĩa là áp dụng nhiều thao tác lập luận..
- Phải biết rút ra ý nghĩa vấn đề..
- Yêu cầu vô cùng quan trọng là người thực hiện nghị luận phải sống có lí tưởng và đạo lí..
- Cách làm bài nghị luận.
- Bố cục: Bài nghị luận về tư tưởng đậo lí cũng như các bài văn nghị luận khác gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài..
- Các bước tiến hành ở phần thân bài: phụ thuộc vào yêu cầu của thao tác những vấn đề chung nhất..
- Câu 1: Vấn đề mà Nê -ru, cố Tổng thống Ấn Độ nêu ra là văn hoá và những biểu hiện ở con người..
- Văn hoá con người..
- Tác giả sử dụng các thao tác lập luận..
- Đoạn từ đầu đến “hạn chế về trí tuệ và văn hoá”: Giải thích + khẳng định vấn đề (chứng minh)..
- Tại sao lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, vạch phương hướng cho cuộc sống của thanh niên tavà nó thể hiện như thế nào?.
- Vấn đề cần nghị luận là đề cao lí tưởng sống của con người và khẳng định nó là yếu tố quan trọng làm nên cuộc sống con người..
- Làm thế nào để sống có lí tưởng?.
- Người sống không có lí tưởng thì hậu quả sẽ ra sao?.
- Lí tưởng của thanh niên ta hiện nay là gì? Ý nghĩa của lời Nê-ru..
- Soạn bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí trang 20 SGK Văn 12.
- a) Vấn đề mà J.
- Nê-ru đưa ra để nghị luận là gì? Căn cứ vào nội dung cơ bản của vấn đề ấy, hãy đặt tên cho văn bản..
- Vấn đề mà Nê-ru cô Tổng thống Ấn Độ nêu ra là văn hoá và những biểu hiện của văn hoá ở con người..
- Có thể đặt tên cho văn bản là: Bàn về văn hoá của con người..
- "Văn hoá có phải là sự phát triển nội tại bên trong một con người hay không? Có phải là cách ứng xử của anh ta với người khác không? Văn hoá có phải là khả năng hiểu được bản thân mình và hiểu được người khác, là khả năng làm người khác hiểu được mình không? Tôi nghĩ rằng văn hoá là tất cả những cái đó.".
- Đoạn từ đầu đến “hạn chế về trí tuệ và văn hoá": Giải thích và khẳng định vấn đề (chứng minh)..
- Những đoạn còn lại là thao tác phân tích, nghị luận..
- Nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng trong cuộc sống của con người (từ câu nói của nhà văn L.
- Khái niệm “Lí tưởng".
- Lí tưởng là ước mơ cao đẹp nhất, là hình ảnh tuyệt vời về một con người kiểu mẫu, một xã hội hoàn hảo, là biểu tượng trong sáng hoàn thiện, hoàn mĩ của cuộc sống mà cá nhân tự xây dựng cho bản thân mình và xem như mục đích để vươn tới.
- Lí tưởng là lẽ sống, là mục tiêu phấn đấu thu hút mọi hoạt động của cả đời người..
- Vai trò của lí tưởng:.
- Tạo niềm lạc quan và tự do trong hành động.
- Lí tưởng của cá nhân và con đường phấn đấu cho lí tưởng ấy Không ngừng học tập, tu dưỡng và hành động..
- Soạn bài lớp 12: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí mẫu 2 2.1.
- Nghị luận xã hội là loại văn bản có ý nghĩa nhật dụng cao, đáp ứng thiết thực đến nhu cầu đời sống tinh thần xã hội..
- Về nội dung, nghị luận xã hội thường bàn đến các đề tài: một vấn đề chính trị, một tư tưởng, đạo lí, một hiện tượng đời sống....
- Đề tài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường là: quan điểm về đạo đức, thế giới quan, nhân sinh quan của con người.
- Để làm một bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, cần thực hiện một số nội dung sau:.
- Giới thiệu, trình bày, giải thích rõ vấn đề về tư tưởng, đạo lí cần bàn luận..
- Phân tích những mặt đúng, vận dụng dẫn chứng xác thực để bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề cần bàn luận.
- về tư tưởng, đạo lí..
- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động thiết thực.
- Dưới dạng câu hỏi, câu thơ của Tố Hữu nêu lên vấn đề thế nào là “sống đẹp”.
- Trong đời sống của mỗi con người, đây là vấn đề cơ bản, cốt yếu nhất để mỗi người có được nhận thức đúng đắn và rèn luyện tích cực để sống đúng nghĩa với một “con người”..
- Lí tưởng đúng đắn, cao đẹp: đây là vị tha, sẵn sàng quên mình vì người khác, vì đất nước, dân tộc.
- Hành động tích cực, lương thiện: hành động chiếm vị trí đặc biệt trong đời sống con người.
- Hành động là cách thực tiễn hoá những tri thức đạo lí được tiếp nhận, học hỏi trong đời.
- Không hành động, con người chỉ là nhà lí thuyết suông, mớ kiến thức thu nhận được chẳng có ý nghĩa gì cho đời.
- Về văn phong cần chú ý: Đây là vấn đề thuộc nghị luận xã hội, cần dùng nhiều tư liệu từ thực tế cuộc sống, nên hạn chế sử dụng những dẫn chứng trong thơ văn để tránh đi lệch sang nghị luận văn học..
- a) Vấn đề mà Gi.
- Nê-ru bàn là phẩm chất văn hoá trong nhân cách của mỗi con người..
- Căn cứ vào nội dung cơ bản và mạch lập luận, ta có thể đặt tên cho văn bản: “Những biểu hiện văn hoá của con người” hoặc “Phẩm chất của con người có văn hoá”....
- b) Các thao tác lập luận được sử dụng trong văn bản là:.
- Giải thích: văn hoá là sự phát triển nội tại.
- văn hoá nghĩa là....
- Phân tích: một trí tuệ có văn hoá....
- a) Có ba vấn đề cần giải thích: Lí tưởng, phương hướng hành động, cuộc sống..
- Lí tưởng là khát vọng sống cao đẹp, là mục tiêu phấn đấu cho những giá trị vĩnh hằng và nhân bản trong cuộc sống, như lòng vị tha, nhân hậu, tinh thần độc lập, tự do, bình đẳng, tôn trọng quyền cá nhân con người,...,.
- Lí tưởng định hướng cho hành động.
- Không có lí tưởng, con người không biết phải hành động như thế nào..
- Cuộc sống chính là đích đến của hành động và lí tưởng..
- Lí tưởng bắt nguồn từ cuộc sống, cụ thể là từ những nhu cầu nội tại của cá nhân và xã hội.
- Không có cuộc sống thì chẳng thể nào có lí tưởng..
- Hành động kiên định là cách thức biến lí tưởng vốn là sản phẩm lí thuyết, trở thành sản phẩm hữu dụng đích thực trong cuộc đời..
- Đích đến của lí tưởng và hành động là cuộc sống.
- Nhờ có lí tưởng và hành động mà cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, xã hội được phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hơn..
- Trong các mối quan hệ trên, lí tưởng đóng vai trò mở đường, vai trò định hướng, là chỗ dựa đáng tin cậy để con người hành động mà không sợ rời xa chân lí..
- Cuộc sống không có lí tưởng thật là tẻ nhạt và vô vị nếu không nói là không đáng sống..
- Trong thời kì mở cửa, hội nhập với thế giới bên ngoài, nhiều giá trị văn hoá được du nhập, nhưng đồng thời nhiều yếu tố văn hoá, lối sống lệch lạc cũng theo đó xâm nhập vào đời sống của không ít thanh thiếu niên.
- Vấn đề đạo đức, cách hành xử.
- của con người cần phải được xem trọng và uốn nắn kịp thời.
- Nguyên tắc giáo dục: “Tiên học lễ, hậu học văn” được đề cao cũng chính vì mục đích đó..
- Bản thân “lễ”.
- Hiểu tận cùng chữ “lễ” không phải dễ.
- Ở đây, chúng tôi chỉ khai thác “lễ” trong phạm vi ngữ nghĩa có liên quan đến “văn” mà thôi..
- “Lễ” có nghĩa là cách cư xử, giao tiếp có văn hoá giữa người với người theo chuẩn mực đạo đức được xã hội quy định trong các quan hệ giữa người trên với người dưới, giữa người dưới với người trên.
- Hiểu rộng ra ấy là kiến thức của con người được tích luỹ qua bao thế hệ..
- Không nên cho rằng người xưa chỉ chú trọng đến “lễ” mà quên “văn”.
- Cả “lễ” và “văn” đều quan trọng như nhau, đặt đồng hàng, nhưng khi giáo dục thì phải lấy cái đức làm trọng..
- Giao tiếp ngày thường, chúng ta gặp “lễ” trong các cặp từ sau “lễ phép”, “lễ nghĩa”...(còn như “lễ tân” (ở khách sạn) “lễ đình”, “lễ cưới.
- Nếu “lễ” tượng trưng cho đạo đức thì trong trật tự kết cấu này, cha ông ta đã lấy đức làm đầu.
- Với ta “lễ quan trọng hơn “pháp” nhiều, đành rằng cách nhìn nhận ở đây có thể xuất phát từ chính sách cai trị “Trong Pháp ngoài Nho” của đại đa số các chính trị gia cổ đại ở Trung Quốc cũng như ở ta..
- Với cách cấu tạo từ tương tự, một lần nữa, “lễ” lại đứng trước: “lễ nghĩa”..
- Muốn trở lại người có “lễ” thì phải học mà học thì phải thông qua chữ (văn).
- Nếu một người có học mà không có “lễ” thì người đó được xem như là hạng bất nhân.
- Xã hội hiện đại ngày nay, càng văn minh, con người dường như ít đạo đức, ít quan tâm đến nhau.
- Cần có sự kết hợp hài hoà giữa truyền dạy kiến thức khoa học với dạy đạo lí làm người.
- “Tiên học lễ, hậu học văn” là phương châm giáo dục của Nho gia.
- Chúng ta và những thế hệ tiếp theo cần tiếp tục phát huy và gìn giữ cho sự nghiệp đào tạo ra những con người mới hữu ích cho công cuộc hiện đại hoá và cơ khí hoá đất nước.