« Home « Kết quả tìm kiếm

Sự tổng hợp đặc điểm của các loại hình nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh


Tóm tắt Xem thử

- SỰ TỔNG HỢP ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH Lâm Văn Điền và Nguyễn Thị Hồng Hạnh.
- Văn học, các loại hình nghệ thuật, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh.
- Văn học có mối quan hệ khăng khít với các loại hình nghệ thuật khác.
- Bản thân văn học cũng có khả năng tổng hợp nhiều nhất các đặc điểm của những loại hình nghệ thuật bằng chất liệu ngôn từ.
- Bài viết này đề cập đến sự tham dự của các loại hình nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc và điện ảnh,… trong tác phẩm văn học qua tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh..
- Các loại hình nghệ thuật trên hiện diện trong tác phẩm của Bảo Ninh như một phương tiện tái hiện đời sống, đồng thời biểu hiện quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn..
- Sự tổng hợp đặc điểm của các loại hình nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
- 1.1 Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nghệ thuật là “Hình thái đặc thù của ý thức xã hội và của các hoạt động con người, một phương thức quan trọng để con người chiếm lĩnh các giá trị tinh thần của hiện thực, nhằm mục đích tạo thành và phát triển các năng lực chiếm lĩnh và cải tạo bản thân và thế giới xung quanh theo quy luật của cái đẹp” (Lê Bá Hán và ctv., 2004).
- Trong tiến trình phát triển khách quan của nghệ thuật, mỗi một chỉnh thể nghệ thuật đã có sự phân chia và hình thành các loại hình nghệ thuật khác nhau, có sự kết hợp và đan chéo các đặc điểm của những loại hình nghệ thuật khác, nên có thể nói, không có loại hình nghệ thuật nào là “thuần nhất”.
- Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, văn học ra đời từ lao động thực tiễn của con người, có tính chất tổng hợp nhiều nhất các đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác, vì vậy, người ta xem nó như một loại hình nghệ thuật đặc.
- biệt, sánh ngang với các bộ môn còn lại của nghệ thuật.
- Cách nói “Văn học và nghệ thuật” cũng bắt nguồn từ đấy.
- Bất cứ loại hình nghệ thuật nào cũng có thể tìm thấy trong cái kho vô tận đó những đại lý gián tiếp cho chất liệu, cho “ngôn ngữ” của chính mình.
- Do vậy, bất cứ loại hình nghệ thuật nào cũng có khả năng chuyển dịch một phần thích hợp trong tác phẩm văn học thành hình tượng nghệ thuật của mình.
- Và ngược lại, văn học cũng có khả năng chuyển dịch tác phẩm của bất cứ loại hình nghệ thuật nào đó thành hình tượng ngôn từ, theo một cách riêng, tùy thuộc vào tài năng của chủ thể sáng tạo..
- Ngay từ khi ra đời, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã gây chú ý và trở thành hiện tượng văn học nổi bật trong thập niên 90 của thế kỷ XX..
- Ở đó, Bảo Ninh đã miêu tả cuộc chiến tranh từ góc độ cá nhân, thân phận con người với những nỗi niềm thầm kín.
- Qua câu chuyện của người lính tên Kiên, người phải sống giữa hiện tại hậu chiến với những hồi ức về chiến tranh và hoài niệm về mối tình đầu với cô bạn học tên Phương, bộ mặt đáng sợ của chiến tranh và những éo le trong số phận của con người cùng tình yêu của họ được thể hiện hết sức sống động và sâu sắc.
- Nỗi buồn chiến tranh được xem là một trong những tác phẩm hay và cảm động nhất viết về chiến tranh và tiêu biểu cho quá trình hiện đại hóa và đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại..
- 1.3 Như đã trình bày, văn học luôn có khả năng dung hợp những đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác bằng chất liệu ngôn từ và trong Nỗi buồn chiến tranh, khả năng ấy cũng được thể hiện một cách rõ nét.
- Các loại hình nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, điện ảnh,… với các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của từng loại hình được Bảo Ninh vận dụng một cách linh hoạt tạo nên sự thú vị cho độc giả trong việc tiếp nhận tác phẩm.
- Trải nghiệm tác phẩm, ta như đang đứng trước một bức tranh, đang nghe những thanh âm của một bản hòa tấu, đang xem một cuốn phim mà tất thảy đều bị chi phối bởi hiện thực chiến tranh tàn khốc..
- 2 NỖI BUỒN CHIẾN TRANH – MỘT TIỂU THUYẾT MANG TÍNH CHẤT TỔNG HỢP ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT.
- 2.1 Nỗi buồn chiến tranh – bức tranh u tối về hiện thực chiến tranh.
- Đề tài chiến tranh được khắc họa trong hội họa và văn học thời kỳ này mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn với những màu sắc tươi vui, tư thế oai hùng trong chiến trận.
- Trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, bằng những thủ pháp của hội họa, Bảo Ninh đã vẽ nên một bức tranh u tối của hiện thực chiến tranh với những gam màu xám tối mà trong đó, màu đen của bóng đêm, màu xám của khói bụi chiến tranh là những màu sắc chủ đạo.
- Có thể nói, so với các loại hình nghệ thuật khác, hội họa có thế mạnh vượt trội trong việc biểu hiện sự phong phú của cuộc sống qua màu sắc.
- Màu sắc trong văn học chẳng những là phương tiện miêu tả thế giới mà còn là phương tiện thể hiện cái nhìn nghệ thuật đối với cuộc đời, mang màu sắc thời đại và cá tính.
- Màu sắc trong tác phẩm có thể giàu - nghèo, đậm - nhạt, thực - ảo … phụ thuộc vào cái nhìn của người nghệ sĩ.
- Chính vì vậy, cùng viết về chiến tranh nhưng Bảo Ninh lại nghiêng về những màu sắc u tối chứ không tươi sáng như ở một số nhà văn khác..
- Những dư chấn tinh thần và hiện thực chiến tranh đã được Bảo Ninh phác họa một cách chân thực, vừa u ám, vừa hư ảo: “Cuộc chiến có vẻ như bị vùi lấp trong biển mênh mông mù mịt mùa mưa, thế nhưng nếu cứ để tâm lắng nghe mãi tiếng mưa rơi trên mái rừng và ngước nhìn mãi bầu trời thâm xám, thấp và tối như vòm hang thì người ta chỉ có thể nghĩ tới chỉ duy nhất nó mà thôi: chiến tranh, chiến tranh… Bốn bề mìn mịt chỉ một màu mưa trĩu lòng, một màu núi rừng ảm đạm và đói khổ..
- Trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh còn vẽ nên những bức tranh mờ ảo, kỳ dị của tâm tưởng nhân vật với những ám ảnh của chiến tranh.
- Những bức tranh ma quái, huyễn hoặc luôn ngự trị trong đầu Kiên như một dư chấn đau thương của chiến tranh.
- Tính họa trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh còn thể hiện ở việc phác họa nên những bức chân dung của nhân vật.
- Ngoài ra, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh còn tái hiện những chân dung bi thảm mà chiến tranh mang lại.
- Đó là Can với cái chết đau thương: “Mặt của xác chết quạ rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục, nom cực kỳ tởm … Hai cái hố mắt của nó trông như hai cái tăng xê, mà chưa chó gì đã mọc rêu xanh lè, rõ ghê!” (Bảo Ninh, 2003), tạo nên sự ám ảnh trong tâm trí độc giả về sức mạnh hủy hoại của chiến tranh..
- Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh còn đề cập đến hội họa một cách trực tiếp khi gắn nó với nghề nghiệp của nhân vật.
- Cha Kiên là họa sĩ, một họa sĩ không hợp thời, với cảm hứng nghệ thuật xa lạ với người đương thời.
- Những bức tranh của ông truyền tải một giá trị tư tưởng nhất định, gắn với trạng thái ưu thời mẫn thế của con người khi cuộc sống ngày càng bế tắc và chiến tranh như một cơn đại hồng thủy nhấn chìm niềm tin về tương lai và những giá trị người.
- Nó đi ngược lại với tính chất minh họa của nghệ thuật một thời và vì đi ngược lại nên người ta phê phán ông, “do những hạn chế về lập trường quan điểm, do ngày càng xa lạ với thẩm mỹ của quần chúng nhân dân lao động, ông đã biến hội họa của ông thành những chân dung ma quỷ” (Bảo Ninh, 2003).
- Theo ông, trong nghệ thuật nói chung mà cụ thể là hội họa, “phải hạ tính vĩnh cửu xuống mà thêm chất phàm tục vào” (Bảo.
- Trong Nỗi buồn chiến tranh, tính họa đóng một vai trò quan trọng trong việc tái hiện đời sống, bằng việc phối hợp màu sắc và ánh sáng, Bảo Ninh đã vẽ nên những bức tranh đa dạng về hiện thực chiến tranh trong cái phông nền chung của những sắc màu u ám, tàn khốc và hủy diệt.
- Bên cạnh đó, những hình khối, đường nét trong hội họa cũng được tác giả vận dụng khi phác họa những bức chân dung nhân vật, đa phần mang những gương mặt gớm ghiếc do sự hủy hoại của chiến tranh.
- Tuy nhiên, đôi khi cũng có chân dung mang vẻ đẹp đối lập hoàn toàn với hiện thực chiến tranh tàn khốc.
- 2.2 Nỗi buồn chiến tranh - bản hòa tấu hỗn loạn Âm nhạc là loại hình nghệ thuật “dùng âm thanh để diễn đạt.
- Sopenhauer thì cho rằng âm nhạc là nghệ thuật tối cao vì “nói được tính chất hướng ngoại của ý chí” (Lê Lưu Oanh, 2006).
- Qua âm nhạc, người ta có thể thấy tinh thần thời đại, đặc điểm dân tộc và tính cách cá nhân, điều này âm nhạc có phần gần gũi với văn học và các loại hình nghệ thuật khác.
- Trong tác phẩm tự sự, tính nhạc thể hiện ở nhịp điệu trần thuật.
- Nhịp điệu trong nghệ thuật nói chung là sự hài hòa, đối xứng, lặp lại về không gian, thời gian, là yếu tố mang tính tổng thể của hình tượng, liên kết các yếu tố của chỉnh thể hình tượng.
- Nghệ thuật thời gian và không gian đều mang tính nhịp điệu.
- Theo Trần Đăng Suyền (Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn học, 2016), nhịp điệu trần thuật trong một tác phẩm tự sự bao gồm nhịp điệu của các sự kiện và nhịp điệu hành động của nhân vật.
- Thường thì, những tác phẩm có cốt truyện chủ yếu dựa trên những sự kiện biến cố bên ngoài nhìn chung có nhịp điệu nhanh, gấp gáp.
- Ngược lại, những tác phẩm có cốt truyện dựa trên hành động bên trong của nhân vật lại tạo nên nhịp điệu chùng, thong thả,.
- Tuy nhiên, nhịp điệu chung của tác phẩm căng hay chùng, gấp gáp hay thong thả, chậm rãi, chủ yếu là phụ thuộc vào thời gian sự kiện, biến cố được miêu tả trong tác phẩm..
- Nhịp điệu trần thuật của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh khá nhanh, gấp gáp, dồn dập, vì tác phẩm chủ yếu được dệt nên từ những cái ngẫu nhiên, những sự kiện đột biến bất ngờ, những đứt gãy gấp khúc của các số phận nhân vật, làm đảo lộn những quy luật thông thường của đời sống.
- Mạch truyện cũng vì thế rối rắm, phức tạp, khó mà kể lại theo trật tự thông thường, thể hiện tâm thế của một con người mang trong mình dư chấn đau thương của chiến tranh..
- Đan chen với những thanh âm hỗn loạn của một tâm hồn bị đa chấn thương, trong Nỗi buồn chiến tranh còn có những bản hòa ca nhẹ nhàng gắn với những kí ức êm đềm của nhân vật, thể hiện qua nhịp điệu trầm lắng, dàn trải, lời văn nhẹ nhàng, tha thiết.
- giai điệu trữ tình tha thiết, khi đó, chiến tranh hãy còn xa lắm: “Kiên lại thấy Hà Nội của anh, Hồ Tây, chiều hạ, hàng phượng vĩ ven hồ, tiếng ve sầu ran lên khi hoàng hôn xuống anh cũng nghe thấy và cảm thấy gió hồ lộng thổi, cảm thấy sóng vỗ mạn thuyền.
- Nếu ví tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh như một bản nhạc giao hưởng bằng chất liệu ngôn từ thì rõ ràng, đó sẽ là một bản giao hưởng không dễ tiếp nhận bởi những thanh âm hỗn tạp được tổ chức đầy ngẫu hứng, khi dịu dàng, róng riết, khi mạnh mẽ, gấp gáp, hỗn loạn, nhưng bản giao hưởng ấy lại thể hiện được tâm thế của một con người mang trong mình dư chấn đau thương của chiến tranh nói riêng và tính chất phức tạp của thế giới tinh thần con người nói chung, đồng thời làm toát lên giá trị tư tưởng của tác phẩm cũng như cho thấy tài năng, sự tinh tế của Bảo Ninh trong việc thể hiện nhịp điệu của cuộc sống..
- Bên cạnh đó, âm nhạc trong tác phẩm còn gắn với motif tiếng đàn.
- Tiếng đàn tồn tại trong tác phẩm như một nỗi ám ảnh khôn nguôi trong lòng người đọc và trong lòng Kiên.
- Đầu tiên, tiếng đàn bập bùng êm ái gắn với Phương, với kỉ niệm Kiên và Phương đi cắm trại ở Đồ Sơn trước khi chiến tranh ồn ã ập đến: “Ngồi thẳng lên, áp nhẹ cây đàn vào lòng.
- Trong giọng hát của Phương như đều đều hơi thở tâm hồn của một lớp thanh niên được sinh ra ở đời chỉ cốt dành cho cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày hôm ấy” (Bảo.
- Tính nhạc trong Nỗi buồn chiến tranh còn gắn với việc miêu tả, mô phỏng âm thanh.
- Thanh âm đó có thể là tiếng vọng của thế giới tự nhiên, là tiếng chim chóc, tiếng gió, tiếng mưa, hoặc thanh âm của chiến tranh trận mạc với tiếng bom rền vang, tiếng súng rung trời.
- Ghê rợn hơn, đó là tiếng cười trong đêm gây ám ảnh không dứt trong những năm tháng chiến tranh nơi sơn lâm u thẳm: “Đáp lời Kiên là một chuỗi kinh khủng tiếng cười sởn tóc gáy.
- Có thể nói, kí ức về chiến tranh của Kiên không chỉ là những hình ảnh không thể nào quên, mà còn là những âm thanh đầy ám ảnh..
- Trong thơ, nhạc tính thể hiện ở vần, điệu, ngắt nhịp, còn trong tác phẩm tự sự, tính nhạc thể hiện ở nhịp điệu trần thuật gắn với thời gian – không gian của các sự kiện, biến cố, nhân vật trong tác phẩm.
- Tính nhạc tồn tại trong tác phẩm gắn với motif tiếng đàn như những thanh âm chua xót cho thân phận con người trong và sau chiến tranh.
- nhiên, của đời sống chiến tranh như một sự biểu hiện của tính nhạc trong tác phẩm, khơi gợi trong tâm trí người đọc những ám ảnh về cuộc chiến đã qua..
- 2.3 Nỗi buồn chiến tranh – bộ phim chân thật, ám ảnh về chiến tranh Việt Nam.
- Trong các loại hình nghệ thuật, nghệ thuật điện ảnh có khả năng vô tận trong việc miêu tả đời sống hơn hết bởi tính tổng hợp của nó.
- Nó là nghệ thuật thời gian – không gian.
- Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã vận dụng một cách hiệu quả kĩ thuật dựng phim của điện ảnh để xây dựng một câu chuyện đặc sắc.
- Cuộc sống của Kiên đã dồn vào quá khứ, bị quá khứ chiến tranh níu giữ, bào mòn, gặm nhấm....
- Với kĩ thuật đồng hiện thời gian, gắn với thủ pháp gián ghép điện ảnh, đan xen những mảng màu tối sáng, những cơn mê sảng, thức tỉnh của nhân vật, tác giả đã đưa người đọc vào những màn sương mù, những cơn thác loạn của kí ức chiến tranh.
- Giá trị nhân bản của tác phẩm được toát lên từ cái nhìn chân thực, đa chiều.
- những chiêm nghiệm về chiến tranh của Kiên cũng chính là của Bảo Ninh, một nhân chứng sống đã trải qua những năm tháng chiến đấu khốc liệt ấy..
- Nỗi buồn chiến tranh là những thước phim sống động về hiện thực chiến tranh khắc nghiệt với những mất mát đau thương.
- Trong tác phẩm có những hình ảnh rợn người, ám ảnh như những thước phim kinh dị.
- Mỗi mảnh ghép về mỗi nhân vật gắn những số phận khác nhau nhưng đều gây những ám ảnh ghê gớm và đồng quy ở một điểm là cái chết bi thảm trong chiến tranh.
- ba cô gái bị chiến tranh cầm tù, giam hãm tuổi xuân giữa rừng già, đương khi tìm được hạnh phúc ngắn ngủi với những viên trinh sát thì đã bị bọn viễn thám bắt, hãm hiếp và giết hại.
- Chính vì tính chất gần gũi với điện ảnh nên Nỗi buồn chiến tranh từng được đề nghị và lên kế hoạch chuyển thể thành phim năm 2008 bởi đạo diễn người Mỹ - Nicolas Simon, nhưng vì một vài lí do tế nhị nên bộ phim phải tạm dừng.
- Dẫu có những nuối tiếc, song, độc giả cũng không quá hụt hẫng bởi khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, người đọc như đang trải nghiệm một bộ phim bởi kĩ thuật lồng ghép của điện ảnh được vận dụng một cách nhuần nhuyễn, hơn nữa, tính hình tượng – gián tiếp của nghệ thuật ngôn từ sẽ góp phần kích thích trí tưởng tượng, liên tưởng của người đọc..
- Trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, độc giả còn có thể nhận thấy biểu hiện của các thành viên khác trong gia đình nghệ thuật.
- Đó là việc khắc họa không gian sống của nhân vật gắn với nghệ thuật kiến trúc, khi Bảo Ninh miêu tả không gian chung cư, không gian trong phòng, không gian trường Bưởi gắn với những kỉ niệm thiếu thời của Kiên và Phương, Hà Nội mộng mơ với những dãy phố, những con đường.
- Nghệ thuật điêu khắc giúp phục dựng nên những bức tượng đài chua xót của những thân phận con người trong chiến tranh, mỗi người một vẻ mặt đau thương, một số phận bi thảm và một sự ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí.
- Nếu như nghệ thuật sân khấu chú trọng tính kịch, tính hành động và đối thoại, thì tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã đảm bảo được hầu hết những yêu cầu, khi tạo nên được những tình huống đầy kịch tính, sự đấu tranh gay gắt trong hành động và nội tâm của nhân vật được tập trung khắc họa, cứ như thế, những nút thắt dần dần được tháo gỡ cho đến cuối tác phẩm.
- Thật không quá lời khi khẳng định rằng Nỗi buồn chiến tranh là một tiểu thuyết tổng hợp các loại hình nghệ thuật, tái hiện đời sống một cách đa dạng, nhiều chiều, đem đến những trải nghiệm phong phú cho thế giới tinh thần của con người..
- Văn học là một loại hình nghệ thuật không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ gắn bó khăng khít với các anh chị em của nó trong gia đình nghệ thuật.
- Có những ngành nghệ thuật không thể tồn tại nếu thiếu sự hỗ trợ của văn học, như sân khấu, điện ảnh.
- Ngược lại, về phần mình, văn học cũng dung nạp những kĩ thuật của các ngành nghệ thuật khác, như tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh là một trường hợp điển hình.
- Nỗi buồn chiến tranh đã tổng hợp đặc điểm của nhiều loại hình nghệ thuật khác, đặc biệt là hội họa, âm nhạc và điện ảnh..
- Cuốn tiểu thuyết ấy là một bức tranh u tối về hiện thực chiến tranh với những gam màu tối tăm, u ám;.
- một bản giao hưởng hỗn loạn của những thanh âm xuất phát từ cõi sâu xa vô thức trong tâm hồn con người bằng nhịp điệu trần thuật phức hợp và là những thước phim chân thực, ám ảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam với kĩ thuật đồng hiện, sự sắp xếp các tình tiết, sự kiện phi tuyến tính, mỗi nhân vật – mỗi thân phận con người hiện lên một cách đau thương và chua xót.
- Bên cạnh đó, nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc và cả sân khấu cũng hiện diện trong tác phẩm, như những phương tiện tái hiện đời sống và biểu hiện quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn..
- Việc thu nạp những kĩ thuật của các loại hình nghệ thuật khác đã tạo nên tính tổng hợp, tính vạn năng trong khả năng tái hiện đời sống của văn học..
- Có lẽ đó là lí do khiến Belinsky từng coi văn học là nghệ thuật hàng đầu vì “bao hàm trong bản thân nó tất cả mọi yếu tố của các nghệ thuật khác, dường như nó bất ngờ sử dụng được một cách hữu cơ mọi phương tiện khác nhau của các nghệ thuật khác” (Phương Lựu và ctv., 2006)..
- Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB.
- Trần Đăng Suyền (2016), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn học, NXB