« Home « Kết quả tìm kiếm

THAY ĐỔI TRUYỀN THỐNG VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI ĐÔ THỊ


Tóm tắt Xem thử

- Các đô thị có một số diện mạo đáng ngạc nhiên.
- Đô thị không có gì đặc biệt, ngoại trừ đó là nơi tất cả cùng nhau đến.
- Các chợ đô thị liên kết thành phố với vùng nội địa, đất nước và các thị trường thế giới.
- Bộ máy hành chính tập trung lại với nhau và liên kết qua thành phố các vùng miền của một quốc gia, và các điều kiện thuận lợi về giáo dục từ các trường đại học đến tiểu học tạo điều kiện để con người tiếp cận được kiến thức toàn cầu.
- của đô thị..
- Trước khuôn khổ không gian của giao điểm đô thị này, chúng ta phải bổ sung một chiều cạnh thời gian: Đô thị làm cho quá khứ, hiện tại và tương lai xích lại gần nhau hơn..
- Theo một cách rất đơn giản, việc liên kết của quá khứ, hiện tại và tương lai do thực tế đơn giản đô thị là môi trường được xây dựng nên.
- Một đô thị đã được tạo ra theo cách hoạch định nhiều hay ít do tập quán con người, ám chỉ rằng xây dựng mới cái gì đó, đòi hỏi phải phá bỏ cái gì đó đã cũ.
- Từ xưa đến nay, chiến tranh luôn bao hàm việc kẻ thù tàn phá các thành phố.
- Một khi các thành phố bị tàn phá, kẻ thù sẽ làm mất đi văn hoá, tinh thần và khả năng cũng như ý chí để tiếp tục chiến đấu.
- Những tai hoạ thiên nhiên như lũ lụt, động đất, núi lửa là những kẻ tàn phá khác của các thành phố, cũng như hoả hoạn, ít nhiều đã thường xuyên xảy ra..
- Trước đây các vụ hoả hoạn này đã phá huỷ những vùng rộng lớn của các thành phố và do đó đã được tính đến và đòi hỏi tái thiết..
- Hãy nhớ rằng các thành phố rất dễ bị thảm hoạ thiên nhiên, đáng ngạc nhiên là hầu như tất cả các hệ thống đô thị, ở nhiều vùng hay toàn cầu, là rất cũ.
- Tuy nhiên, ở Đông Nam Á, chúng ta có cùng sự tồn tại thú vị về các truyền thống đô thị cũ và tính hiện đại do chủ nghĩa thực dân để lại.
- Các truyền thống đô thị, như những gì Wolters đã nói đến là các thành phố của các nhà nước nội địa phụ thuộc vào sản xuất của nông dân hay các bến cảng là những điểm nút trong các mạng lưới buôn bán quốc tế.
- Hệ thống đô thị của.
- các thành phố này có từ 500 đến 1.000 năm.
- Các thành phố như Hà Nội, Ayudhya, Ava, Yogjakarta và Malakka.
- So với các thành phố cổ này hầu hết trong đó nằm ở các vùng đất màu mỡ, các thành phố thuộc địa thì gần đây hơn.
- Các thành phố này nằm ở các vùng kém màu mỡ, thường ngập nước sát với bờ biển, vì chức năng của nó là liên kết vùng thuộc địa qua các mạng lưới khai thác đến từng các trung tâm thuộc địa.
- Ở đây, chúng ta có các thành phố như Singapore, Yangoon, Sài Gòn/Thành phố Hồ Chí Minh và Batavia/Jakarta hoặc Manila.
- Trong khi ở những thành phố sau quá khứ thuộc địa tạo ra truyền thống đô thị chính, ở những thành phố trước chúng ta có vẫn công nhận vai trò lịch sử và trước thực dân..
- Tính hiện đại ở đô thị.
- Trong nghiên cứu về "The Fall of Public Man", Richard Sennett đã có nhận xét mang tính khiêu khích rằng trong nhiều thế kỷ qua, các thành phố đã được xây dựng theo nghĩa rõ ràng và dễ hiểu.
- Thành phố được hiểu bởi người dân của nó.
- Nhìn vào các thành phố ở châu Âu và nhất là các thành phố ở Đức từ những năm 50 đến những năm 70, người ta đã nỗ lực xây dựng lại các thành phố này sau khi bị chiến tranh tàn phá để.
- Đây là thời gian mà các khoảnh đất và các thành phố mới ở các vùng ngoại vi được xây dựng.
- Các vùng cũ của thành phố đã bị phá huỷ để nhường chỗ cho các đường quốc lộ mới, các văn phòng, toà nhà v.v.
- Trong quá trình này, các thành phố đã mất đi hầu hết lịch sử và sự hấp dẫn của nó..
- Ngày nay, chúng ta có thể thấy được sự xuất hiện của một dạng đô thị toàn cầu.
- Các ý tưởng quy hoạch đô thị và dĩ nhiên là một đô thị đẹp nếu muốn đã trở nên được tiêu chuẩn hoá chắc chắn nhất là bởi các chương trình giảng dạy về quy hoạch đô thị khá giống nhau ở tất cả các trường đại học.
- Lịch sử của một đô thị cụ thể và các nền văn hoá chỉ còn là biểu tượng.
- Ngoài vấn đề này ra, đó là xây dựng lại các đô thị theo định hướng thị trường toàn cầu, chúng ta có các tổ chức quốc tế đưa ra các vấn đề của các đô thị, không lo lắng vì đây là các vấn đề hoàn toàn giống như ở khắp nơi trên thế giới.
- Đôi khi các vấn đề này được thực hiện thành những tầm nhìn tiêu cực của một thảm hoạ đô thị.
- Thật thú vị, các tầm nhìn hoạch định tích cực và tiêu cực thường có trọng tâm của nó về khía cạnh kỹ thuật và công cụ của chủ nghĩa đô thị.
- Mà một đô thị được làm bởi dân do đó thường bị quên lãng.
- Các giải pháp kỹ thuật có thể được dự kiến, và mong rằng các giải pháp hữu hiệu tự động dẫn đến một cuộc sống tốt hơn trong đô thị..
- Hơn nữa, các giải pháp kỹ thuật được dựa vào chuyên môn, trong khi giả sử rằng hầu hết người dân sống ở một đô thị không có chuyên môn thành thạo.
- Tại sao vấn đề này cũng không nên có giá trị đối với các đô thị?.
- Điểm trọng tâm về kỹ thuật của sự phát triển đô thị tuân theo sự bình ổn giá tư bản chủ nghĩa về kiến thức.
- Câu hỏi là tại sao nhiều hơn lại tốt hơn, về cơ bản là một vấn đề về chính trị và đạo đức và vì thế nằm ngoài sự phát triển kỹ thuật và nền kinh tế.
- Do đó sự phát triển phải bắt đầu qua khuyến khích như vậy.
- Với sự gia tăng của các công nghệ và kinh tế học tự do, sự biến mất của không gian và do đó toàn cầu hoá là có thể, cùng với sự gia tăng của các tổ chức toàn cầu như các tổ chức phát triển.
- tự hợp pháp hoá dưới dạng tầm nhìn phát triển như đưa vào các mục tiêu nghìn năm, mà hầu như không ai có thể bàn cãi.
- Tuy nhiên, các kỹ thuật tạo ra hàng hoá, hay hoàn thành hứa hẹn trong bối cảnh đô thị? Đối với Lefebvre công nghiệp hoá và hiện đại hoá là hai mặt của quá trình tương tự, tức là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Công nghiệp hoá tiêu biểu cho khía cạnh công cụ, sự phát triển quá nhanh của các công nghệ, trong khi đô thị hoá được liên kết với thành phần xã hội, tạo ra công nghiệp hoá phát triển và do đó làm cân xứng quan hệ xã hội và tính vượt trội.
- Càng nhiều sự vượt trội của tính chất qua sự hợp lý công cụ đã khiến công cụ trở nên thích hợp để chi phối xã hội, đô thị hoá đã bị khuất phục dưới sức ép của sản xuất công nghiệp..
- Tuy nhiên, đô thị không có kết cấu từ sự hợp lý công cụ như từ "định cư con người” bao hàm, mà nó là một trung tâm của các hoạt động tương hỗ, trao đổi, liên kết.
- Chúng vẫn chịu được kết cấu của đô thị hướng tới tính công cụ và mặt chức năng thuần tuý.
- Một đánh giá tóm tắt về các công việc hiện nay chỉ rõ các đô thị được thuần hoá và ràng buộc bởi các công nghệ ít như thế nào? Những khó khăn nếu không thể không xảy ra đối với quy hoạch đô thị là hiển nhiên ở tất cả các đô thị lớn.
- Như được nêu rõ trong Báo cáo Habitat 2001: “Các đô thị là các vùng chiến lược và thậm chí sẽ là những nơi mà nhiều người quan tâm tìm cách tối đa hoá lợi nhuận, nhưng đó cũng là nơi quần chúng địa phương và xã hội dân sự đưa ra những yêu cầu đòi hỏi mới để khẳng định quyền của họ đối với những nơi đô thị có thể chung sống.“ (Habitat 2001:75).
- Những thách thức ở đô thị.
- Tất nhiên, kích thước kỹ thuật của các đô thị có sự liên quan mang tính quyết định..
- Tuy nhiên, như các nguồn lịch sử và bằng chứng hiện nay cho thấy nhiều cơ sở hạ tầng đô thị có liên quan chặt chẽ với các hoạt động ở địa phương.
- Nhiều cơ sở hạ tầng được chính người dân dựng lên, nhất là ở các khu nhà ổ chuột hoặc các khu ven đô mà không liên quan với bộ máy hành chính đô thị.
- Nhiều cơ sở hạ tầng do chính quyền đô thị cung cấp được xây dựng do người dân đòi hỏi và những áp lực chính trị.
- Hơn nữa, nhiều dự án từ các công trình xây dựng đến đường phố, giao thông công cộng, đường giao thông và các đô thị được gọi là tư nhân được cung cấp bởi các doanh nghiệp tư nhân.
- Vì vậy sự phát triển về vật chất của bất kỳ đô thị nào đều do các hoạt động và sáng kiến hết sức đa dạng.
- Các công nghệ là hiệu quả rồi sau đó là nguyên nhân để phát triển đô thị..
- Từ viễn cảnh xã hội học phát triển hai khía cạnh tạo ra thành phố, đó là đô thị học và nền văn minh.
- Tôi định nghĩa đô thị học là các hình thức thể chế hoá cụ thể được thực hiện như thế nào đó để đối phó với tính hỗn tạp và nhiều tính đa dạng.
- Do đó chúng ta có thể nói càng ít về đô thị không có thị trường, chứ chúng ta không thể nói về đô thị không có cuộc sống cộng đồng.
- Hiểu về thể chế hoá theo Eisenstadt là một quá trình được cạnh tranh, mỗi đô thị phát triển theo các dạng đô thị riêng của nó.
- Tuy nhiên, những dạng này được khái quát hoá qua các hệ thống đô thị..
- Càng nhiều hệ thống đô thị này đã trở thành một hệ thống thành phố toàn cầu, đô thị học đang trở nên xa cách khỏi đô thị riêng và đang toàn cầu hoá.
- Đồng thời trong mỗi đô thị được khoanh vùng các dạng đô thị học tiến hoá kết hợp và trái với đô thị học toàn cầu..
- Kết quả là văn hoá toàn cầu chủ yếu là văn hoá đô thị.
- Điều này có hai hàm ý là các thành phố ở các nước đang phát triển cho thấy nhiều nét giống với các thành phố ở Tây Âu hoặc Mỹ, ngày càng nhiều thành phố ở châu Âu và Mỹ phô ra các đặc điểm của loại thành phố thế giới thứ ba.
- Here Soja (1989) nêu rõ: “Có vẻ nghịch lý trừ sự sát nhau có tính phụ thuộc nhau về chức năng là các đặc điểm thu nhỏ của thành phố Los Angeles hiện đại..
- Người ta có thể thấy ở Los Angeles không chỉ là các khu liên hợp công nghiệp công nghệ cao ở Silicon Valley và kinh tế vững chắc và không ngừng ở Houston mà còn là những vùng lân cận đô thị bị phá sản và suy yếu về công nghiệp có ảnh hưởng sâu rộng ở Detroit hoặc Cleveland.
- Các thành phố đều sôi nổi đáng ngạc nhiên.
- Hệ thống đô thị hiện nay đã được thiết lập trên quy mô toàn thế giới vào giữa thế kỷ XIX khi tìm thấy các thành phố thuộc địa trước đây.
- Ở các vùng có truyền thống đô thị lâu đời hơn, các hệ thống thành phố có từ nhiều thế kỷ và hầu hết đã tồn tại qua nhiều sự tàn phá, thăng trầm.
- Một mặt, bạo lực được kiểm soát qua sự ngăn chặn, trấn áp và giám sát, nhưng bởi vì việc kiểm soát bên ngoài vẫn hạn chế, tự kiểm soát là vấn đề quyết định cho sự tồn tại của một thành phố..
- Nền văn minh trụ cột và đời sống cộng đồng cùng lúc tạo nên thành phố và là nền móng của nó tác động đến những nỗ lực phát triển.
- Bởi vậy khuôn khổ đạo đức chính trị hoàn toàn biến mất trong phát triển đô thị đã trở lại và khó lòng bỏ qua trong phát triển đô thị..
- Những hạn chế tiếp cận kỹ thuật đối với thành phố được minh hoạ tốt nhất bởi kiến trúc chức năng.
- Trong định nghĩa về đô thị học ở trên, không có liên quan đến quy hoạch đô thị..
- Quy hoạch đô thị dứt khoát là phương pháp thiết thực nhất đối để phát triển đô thị.
- Kế hoạch cố sử dụng hiệu quả không gian thoả mãn nhu cầu của thành phố và người dân của nó.
- Về quy hoạch đô thị nhất là quy hoạch các thành phố lớn người ta tìm thấy sự trái ngược đáng ngạc nhiên giữa các điều khoản, chính sách, sách hướng dẫn đào tạo v.v....
- Các đô thị có khoảng 10 triệu dân lớn hơn hầu hết các bang được Liên hiệp quốc công nhận.
- Vậy nếu, như ví dụ của các nước xã hội chủ nghĩa nêu rõ, các kế hoạch phát triển quốc gia thường hay thất bại, vậy thì các kế hoạch đô thị có thể hoạt động như thế nào?.
- Các thành phố lớn không thể giám sát được.
- Dù tốc độ tăng trưởng của các thành phố lớn luôn thấp với 2 - 3%.
- Điều này có nghĩa là mỗi năm thêm một thành phố lớn vào cụm đô thị hiện có.
- Ví dụ, ở Calcutta, họ đang sử dụng các hình ảnh vệ tinh để tìm ra nơi xuất hiện các vùng mới của thành phố..
- Tính đa dạng của các thành phố khiến nó phức tạp để tập hợp các dữ liệu chính xác mà có thể được sử dụng làm cơ sở quy hoạch.
- Quy hoạch một thành phố là một nhiệm vụ khá phức tạp.
- Mặc dù hoạch định có thể là một ảo tưởng đến mức có khả năng kiểm soát và quản lý hành chính, nhưng các thành phố vẫn làm việc và vẫn hoạt động, vậy điều này là do khả năng của người dân tự mình tổ chức.
- Có nhu cầu về các dự án phát triển kỹ thuật không và các chuyên gia có thể giải thích với người dân thành phố và các khu phố của họ hoạt động như thế nào? Hoạch định có thể phá huỷ các thành phố nhưng tôi nghi ngờ rằng nó có thể tạo ra tính tao nhã..
- Theo các chuyên gia, quy hoạch đô thị đã không thể giải quyết đáng kể các vấn đề về đô thị.
- Ngoài ra theo các chuyên gia, tại sao không tính đến khả năng và kiến thức của người dân đô thị?.
- Khía cạnh cốt yếu nhất của tính bền vững đô thị là việc nó phải dựa vào sự nhất trí được thương lượng và chấp nhận chung về các mục tiêu và tầm nhìn trong tương lai (những đổi mới, tầm quan trọng của lĩnh vực công, xã hội dân sự và nơi ăn ở) đối với tất cả người dân sống trong thành phố.
- Ý tưởng "Thành phố cho Công dân".
- Do đó, phải bổ sung chuyên môn để cho phép tham gia liên quan đến các quyết định về sự phát triển sau này của các đô thị (Carley và những người khác - 2001).
- Gần đây, các phương thức mới về quản lý tổng thể, tính bền vững và sự tham gia của công dân đã ngày càng được chấp nhận rộng rãi trong chính sách đô thị hiện đại ở châu Âu và toàn thế giới.
- Trong nghiên cứu “Đô thị và Dân chúng”, Manuel Castells đã tiếp tục đưa ra lý lẽ rằng ý nghĩa của đô thị không được định rõ bởi các nhà xã hội học, kiến trúc sư, nhà địa lý hoặc các nhà quy hoạch đô thị mà là xã hội (và trong một mức độ rộng hơn là xã hội toàn cầu) như một ý nghĩa lịch sử và xã hội cụ thể: "Các đô thị như tất cả thực tế xã hội là các sản phẩm lịch sử, không chỉ về thực chất tự nhiên mà về ý nghĩa văn hoá của nó.".
- Chính quyền thành phố quan tâm không nhiều về những gì đang diễn ra ở thành phố và hầu hết các cơ sở hạ tầng, từ giếng nước, xử lý rác thải cho đến điện và đường sá đều được những người sống trong vùng tự làm..
- Nhìn vào quy hoạch đô thị của Bielefeld vào cuối những năm 60, có nhiều sự khác nhau rõ rệt