« Home « Kết quả tìm kiếm

TIẾNG HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH CƯ DÂN HƠN NỬA THẾ KỲ QUA


Tóm tắt Xem thử

- Câu hỏi này, tuy vậy, lại không thể trả lời bằng cảm xúc được mà phải kinh qua khảo sát thực tế tiếng nói và kết hợp với các biện minh bằng lý luận ngôn ngữ học..
- Bản tham luận khoa học này là nội dung một phần đề tài nghiên cứu ngôn ngữ mà chúng tôi có ý định thực hiện trong vài năm tới trong một chương trình về Ngôn ngữ và văn hoá Hà Nội mà khoa Ngôn ngữ học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp với Hội Ngôn ngữ học Hà Nội tiến hành sau Lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội..
- Tiếng Hà Nội là khái niệm hình thành một cách tự nhiên, thực tế (cũng như tiếng Huế, tiếng Nghệ, tiếng Sài Gòn.
- nhưng phù hợp với Phương ngữ học địa lý (Geografic Dialectology) dùng để chỉ ngôn ngữ Việt của một vùng đất (Regional Dialect) có lý do lịch sử, địa lý, văn hoá, xã hội lâu đời,… Theo đó, tiếng Hà Nội được mọi người hiểu một cách ước lệ như là ngôn ngữ của chốn thị thành (đô thị Hà Nội) trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX trở về trước..
- Tuy nhiên, ngay cả lúc đó, trong bối cảnh cụ thể, tiếng Hà Nội giới hạn là ngôn ngữ.
- a) Tiếng nói của người Hà Nội vẫn là một bộ phận không tách rời ngôn ngữ của cư.
- Đại học Quốc gia Hà Nội..
- Trong cảnh huống ngôn ngữ ấy, tiếng Hà Nội được coi là thứ phương ngữ thanh tao, nhẹ nhàng của người Tràng An, một ốc đảo không xô bồ, phân biệt với ngôn ngữ những chốn khác..
- Tuy nhiên, xét từ phương diện phương ngữ học (cả trên bình diện địa lý và xã hội), từ trước đó, thì tiếng Hà Nội không hình thành trong một ngày..
- Đó là khởi thủy của tiếng Hà Nội..
- Đây là một vấn đề có tính lý luận ít nhất là đúng với tiếng Hà Nội, theo chúng tôi, đã hai lần được định hình trong vài thế kỷ qua: Tiếng Hà Nội xuất hiện trong quá trình “bắt chước xã hội”của ngôn ngữ trẻ em.
- Nhìn tiếng Hà Nội phải bắt đầu từ ngôn ngữ trẻ em chứ không phải từ tiếng nói của người lớn nhập cư.
- Khoa ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ trẻ em đã có cơ sở lý luận cho vấn đề này..
- Năm 1921, nhà ngôn ngữ nhân chủng Mỹ E.
- Nhà ngôn ngữ học lớn nhất thế kỷ XX, GS.
- Noam Chomsky cũng giải thích vấn đề này một cách xuất sắc khi ông biện minh về Ngữ năng và khả năng thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em3..
- Chomsky đặt ra vấn đề rộng hơn để lý giải ngôn ngữ là cái gì? Tại sao con người lại biết nói? Con người học nói (hay gọi là thụ đắc ngôn ngữ) như thế nào? Năng lực ngôn ngữ, nhận thức của con người với ngôn ngữ là như thế nào? Ông cho rằng một đứa trẻ khi đến tuổi đi đến trường thì đã nắm vững khá tốt cấu trúc tiếng mẹ đẻ.
- Chúng học ngôn ngữ không như học toán (đứa trẻ lớp 2 không thể làm được toán lớp 5, nhưng trẻ ở vào tuổi học đường đã có được ngữ năng như người lớn).
- Nhưng với ngôn ngữ thì khác, khi đứa trẻ đạt đến tuổi đó, nó học các môn toán, khoa học tự nhiên thì có thể chưa đạt về mặt tri thức nhưng với ngôn ngữ thì đứa trẻ đó có thể đáp ứng được mọi nhu cầu giao tiếp cần thiết.
- Không phải là bắt chước đơn giản theo lối máy miệng thụ đắc ngôn ngữ là vấn đề ta cần nghiên cứu và cần suy nghĩ.
- Mặt khác, trong quá trình giao tiếp, đứa trẻ được nghe cái ngôn ngữ không phải lúc nào cũng chuẩn, thậm chí còn phi chuẩn, phi quy tắc ngữ pháp nhưng đứa trẻ vẫn thụ đắc được ngôn ngữ chuẩn, dùng đó để đối chiếu với tất cả những gì nó nghe.
- được, nhận diện được từ những ngôn ngữ chưa chuẩn4..
- Mặc dầu, ở thời kỳ đầu, ngôn ngữ của trẻ em 5, 6 tuổi là hữu hạn nhưng khả năng tiếp nhận là vô hạn, không phải do bắt chước mà có khả năng nói được những câu trong đời chưa bao giờ nói, có thể hiểu được những câu lần đầu tiên trong đời nó nghe thấy.
- Nói một cách khác, ngôn ngữ trẻ em rất quan trọng vì trẻ em học được trong số những lời nói hữu hạn mà chúng sở hữu một hệ thống ngữ pháp khá hoàn chỉnh.
- nhưng đối với tiếng mẹ đẻ, chúng được lại học gần như giống nhau và kết quả biểu đạt năng lực cùng ngôn ngữ là gần như giống nhau.
- Từ đó, Chomsky có nhận xét rằng gần như con người có năng lực ngôn ngữ bẩm sinh, trong đó, ông cho rằng một con người mới sinh ra chưa có nhận thức về tính chất cơ bản của ngôn ngữ lại có thể đọc được những cấu trúc ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ trẻ em quan trọng ở chỗ, khi trẻ tập nói, có khái niệm tiếp nhận ngôn ngữ, có thể nói bằng cơ chế thụ đắc ngôn ngữ, cái đã làm cho em bé bình thường nhất chỉ cần tiếp xúc với ngữ điệu, với môi trường là có thể học được ngôn ngữ trong khoảng thời gian không lâu..
- Tất nhiên, Chomsky cũng nghĩ rằng cơ chế thụ đắc ngôn ngữ cũng chỉ là giả định, cho đến nay ta vẫn chưa chứng minh được điều đó.
- Theo ông, nội dung hay những vấn đề cơ bản của cơ chế thụ đắc ngôn ngữ không có cách nào khác là dùng phương pháp suy luận để luận ra giả thuyết ban đầu.
- Hành động ngôn ngữ của con người đã được Chomsky nhận xét là khác hoàn toàn với các hành vi của loài vật bởi vì con người mới có năng lực khái hoá, trừu tượng hoá và tạo ra những quyết định.
- Như vậy, theo ông, con người ngay từ ban đầu đã có một cơ chế gì đó trong não bộ để cho phép người ta tri nhận ngôn ngữ, nếu không làm sao tiến hành được thụ đắc ngôn ngữ dễ dàng như vậy.
- Ông cho rằng năng lực hiểu biết ngôn ngữ của con người rất tốt, người ta không biết ngôn ngữ này thì biết ngôn ngữ khác..
- Một đứa trẻ lớn lên ở môi trường tiếng Việt thì nó thụ đắc ngôn ngữ tiếng Việt và ở môi trường khác thì nó thụ đắc ngôn ngữ khác.
- Trẻ em có khả năng tri nhận chung về ngôn ngữ chứ không phải chỉ có khả năng cho riêng ngôn ngữ nào.
- Cơ chế thụ đắc ngôn ngữ cũng rất phong phú, nếu không thì làm sao một đứa trẻ lên 6 hay 7 tuổi lại có khả năng nói năng tốt như vậy.
- Tuy nhiên khả năng đó là không có giới hạn nhưng ngôn ngữ cụ thể các em dùng để hành chức lại giới hạn..
- Trở lại với thực tế của tiếng nói người Hà Nội.
- Đời sống đô thị ở đây chuyển biến chậm chạp, phương ngữ Hà Nội trở.
- Trẻ con lớn lên cũng thụ đắc ngôn ngữ một cách tự nhiên như thế.
- Tiếng Hà Nội từ năm 1945 trở về trước cũng gắn với xã hội tĩnh tại, văn hoá thâm trầm của bao nhiêu lắng đọng từ trong quá khứ..
- Tất cả cấu trúc cư dân và ngôn ngữ của người Hà Nội đã có thay đổi lớn trong hơn nửa thế kỷ qua với hai sự kiện lớn lao: Cách mạng tháng Tám 1945 và công cuộc Đổi mới năm 1986..
- Hà Nội trở thành là Thủ đô của một nước Việt Nam mới.
- Tiếng Hà Nội cũng đứng trước vận hội mới và cũng bắt đầu một cuộc thay đổi lần thứ hai như một tất yếu..
- Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1946) đã phân tán dân cư Hà Nội mở đầu cho sự thay đổi (“Người Hà Nội hôm nay ra đi, mang theo mình bao nhiêu nỗi nhớ” 6), trẻ em Hà Nội tản cư đến các tỉnh và một số em được sinh ra ở Việt Bắc, Khu 3, Khu 4,… để 8 năm sau trở về Hà Nội mang theo những sắc thái địa phương trong ngôn ngữ của mình.
- Dân số Hà Nội tăng lên về cơ học lặng lẽ tạo ra những biến đổi ngôn ngữ của thành phố xưa..
- Quân nhân và cán bộ kháng chiến về tiếp quản Hà Nội rồi lưu lại..
- Trong mười năm này, dân số nội đô Hà Nội đã tăng từ 25 vạn (1954) lên một triệu (1964)8.
- Điều đó có nghĩa là cứ 10 người dân Thủ đô thì đã có tới 7,5 người không nói tiếng Hà Nội trước đó nữa.
- Một tất yếu là ngôn ngữ Hà Nội gốc đã bị thay đổi qua các tiếp xúc.
- Tuy nhiên, cũng trong mười năm ấy, một thế hệ trẻ em đã được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Nội.
- Với ngữ năng ở tuổi tiền học đường và học đường, các em đã thụ đắc ngôn ngữ theo xã hội chứ không theo gia đình.
- Sự bắt chước xã hội đã khiến các em nói tiếng địa phương Hà Nội vốn có từ.
- trước, khác hẳn với ngôn ngữ của bố mẹ chuyển cư từ khu 4, khu 5 hay các nơi khác.
- vậy tiếng Hà Nội cũ vẫn được tiếp tục nhưng đã có thêm những yếu tố văn hoá, xã hội mới, những điều chỉnh mới, phát triển mới, tiếp cận nhiều hơn với ngôn ngữ toàn dân trong thời buổi có nhiều giao lưu hơn..
- Kể từ năm 1954, Hà Nội liên tục có một lớp người được sinh ra, lớn lên với ngôn ngữ riêng của họ và tỷ lệ cũng tăng dần theo số dân.
- Ngôn ngữ trẻ em trước sau vẫn là cái nền của tiếng Hà Nội: Tất cả trẻ em không di dân, học sinh phổ thông của thành phố đều có giọng nói giống nhau.
- Bố mẹ các em đều nhận ra điều đó và đều vui mừng vì con mình đã có một tiêu chí bền vững của dân Thủ đô: ngôn ngữ, cái ngôn ngữ không lẫn với các nơi khác..
- Trên phương diện ngôn ngữ, trẻ em tiếp tục được sinh ra (với tốc độ gần 3% sau chiến tranh) và ngôn ngữ của lớp người này tiếp tục củng cố cho cơ tầng của ngôn ngữ địa phương Hà Nội, vừa tiếp nối, vừa đổi mới ngôn ngữ xưa của vùng đất này.
- Ngôn ngữ ấy vẫn là gần nhất với tiếng nói chuẩn được phát chính thức trên đài phát thanh và truyền hình cho dù 70% người lớn nói tiếng nói của di dân..
- Công cuộc Đổi mới đã tạo ra một chuyển biến rất to lớn trong mọi mặt của đời sống trong 25 năm qua cũng ảnh hưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc đến cơ cấu dân cư Thủ đô Hà Nội, cũng từ đó ảnh hưởng đến các biến đổi ngôn ngữ.
- Việc đô thị hoá nhanh chóng đã làm cho sự tăng dân số cơ học ở Hà Nội có tốc độ rất lớn.
- Nếu chỉ quan sát ngôn ngữ bộ phận dân cư người lớn thì dường như điều đó là thực tế (Ví dụ: Khoa Ngôn ngữ học trường chúng tôi có khoảng 30 giáo viên, chỉ có 2 Giáo sư quê Hà Nội, nói.
- tiếng Hà Nội thuở trước9).
- Tuy nhiên, xét về phương diện khoa học ngôn ngữ thì cái thực.
- tế ấy lại chỉ nằm ở lớp trên, là bề nổi của các tiếp xúc xã hội của ngôn ngữ như một tất yếu của biến động cơ học dân cư.
- Ngôn ngữ cũng vậy.
- Cơ tầng phía dưới của tiếng Hà Nội: ngôn ngữ trẻ em và thế hệ trẻ sinh ra, lớn lên trên mảnh đất này trước sau vẫn là nền tảng bền vững của tiếng Hà Nội hiện đại.
- Nói theo ngôn ngữ học là chúng có chung cả ngữ năng.
- Cái ngôn ngữ ấy bố mẹ chúng không can thiệp,.
- Cái ngôn ngữ ấy ngày một đông người nói hơn (trẻ em tăng lên không ngừng) và sẽ.
- thay thế cho ngôn ngữ bề nổi của thế hệ trước (những người thuộc diện di dân).
- Câu ấy cũng đúng với ngôn ngữ: “Ngôn ngữ trẻ em Thủ đô hôm nay cũng là tiếng Hà Nội ngày mai”.
- Khi quá trình di dân cơ học tạm ổn định, qua vài thế hệ, ngôn ngữ trẻ em Hà Nội sẽ trở thành tiếng Hà Nội ngày mới.
- Vậy là ở Hà Nội hiện nay tiếng nói có hai lớp: Hạ tầng là ngôn ngữ trẻ em và thế hệ trẻ, thượng tầng là ngôn ngữ của những người phi bản địa (di dân).
- Ngôn ngữ là công cụ tương tác xã hội nên nó cũng có những tương tác rất lớn qua các tiếp xúc.
- Chúng ta chỉ mới nói đến ngôn ngữ trẻ em ở hạ tầng của tiếng Hà Nội.
- Hiện tượng “pha tiếng” là một tất yếu xã hội qua tiếp xúc ngôn ngữ, không riêng ở Hà Nội, với áp lực lớn từ giao tiếp của ngôn ngữ bản địa.
- nhiều đều bị “đồng hoá” ngôn ngữ bởi áp lực từ tiếng nói bản địa11.
- những trẻ em di dân: chỉ một thời gian không lâu sau khi định cư, lớp trẻ em này sẽ nhanh chóng nói ngôn ngữ của nơi cư trú, nghĩa là tiếng Hà Nội, hòa nhập khá nhanh với học sinh sở tại.
- Sinh viên đến học tập ở Hà Nội 4 - 5 năm cũng không nói ngôn ngữ thuần quê hương của họ.
- Sự giao lưu làm đảo lộn các phương ngữ, nhưng mạnh nhất vẫn là ngôn ngữ trẻ em bản địa..
- Tiếng Hà Nội mới ngày càng được củng cố và phổ biến nhờ các tác động xã hội, trước hết là qua tiếng nói trẻ em, qua ngôn ngữ phát thanh và truyền hình hàng ngày, ngôn ngữ của các quần thể học đường (nhất là mẫu giáo, tiểu học và trung học phổ thông), ngôn ngữ của các sản phẩm nghệ thuật (phim ảnh, ca nhạc) và truyền thông xã hội.
- Ngôn ngữ phát thanh và truyền hình có tác động lớn đến nỗi, ngày nay đồng bào miền núi nói tiếng Việt chuẩn mực theo giọng Hà Nội có thể là còn tốt hơn cả cư dân Hà Nội..
- Nhìn rộng ra, tiếng Hà Nội trong cảnh huống của ngôn ngữ quốc gia, đều đang đi cùng một quy luật: Ngôn ngữ của các đô thị đang biến đổi rất nhanh từ bối cảnh xã hội.
- Tuy nhiên, ngôn ngữ ở thành phố Vinh hiện nay đã khá khác so với tiếng nói của đồng bào các huyện.
- Người thành Vinh, nhất là trẻ em, đã nói nhẹ hơn rất nhiều, có thiên hướng hội nhập rất rõ với ngôn ngữ toàn dân.
- Yếu tố di dân ở đây tuy không lớn bằng các tương tác ngôn ngữ qua các kênh truyền thông và học đường, nhưng các biến động vẫn liên tục diễn ra ở hạ tầng.
- Nhìn rộng hơn, tiếng Việt của chúng ta trường tồn cũng nhờ vào độ bền của ngôn ngữ bản địa.
- Bản tham luận này chưa đề cập đến diện mạo thực tế của tiếng Hà Nội ngày nay.
- Không nên nhìn một số hiện tượng phi chuẩn, “ô nhiễm” trong giao tiếp ngôn ngữ của một số người (ngôn ngữ đường phố, chợ búa, thiếu lịch sự, thiếu văn hoá.
- kể cả của một số thuộc giới trẻ để kết luận rằng không có tiếng Hà Nội (như xưa) nữa.
- Thực ra, nhận xét nhanh thì cũng thấy là tiếng Hà Nội ngày nay, một cách chung nhất, được phát âm vẫn rất tốt, làm chuẩn mực cho ngôn ngữ toàn dân (tiếng phổ thông), tốc độ nói nhanh hơn, cường độ mạnh hơn, thái độ tự tin hơn, tình thái đa dạng hơn, và phong cách nói có đơn giản hơn trong các nghi thức lời nói ở một xã hội đang hướng đến công nghiệp hoá..
- Thành ngữ có câu: “Con chị nó đi, con dì nó lớn”, câu này cũng rất hợp với tiếng Hà Nội.
- Tiếng Hà Nội xưa thanh tao, lịch lãm (của 10 vạn người) đã nhường chỗ cho tiếng Hà Nội mới khỏe khoắn, tự tin, giàu từ vựng hiện vẫn làm nòng cốt của một thứ ngôn ngữ đặc trưng, đại diện cho ngôn ngữ toàn dân (tiếng Việt) với ít nhất là ngôn ngữ của hàng triệu trẻ em và thanh niên Thủ đô giờ đây..
- Ngôn ngữ: Dẫn luận vào việc nghiên cứu tiếng nói, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.
- Sapir E., 2000, Ngôn ngữ: Dẫn luận vào việc nghiên cứu tiếng nói, sđd, tr.16..
- Chomsky N., Nhận thức khởi đầu cho ngôn ngữ học Cải biến - Tạo sinh, 1957 và 1965.
- Các trường phái ngôn ngữ học phương Tây, NXB Lao động..
- Theo thông tin dân số từ các số báo Hà Nội Mới, năm 2009.
- 10 Hai khái niệm quan trọng về cơ chế hoạt động ngôn ngữ của Chomsky N.