« Home « Kết quả tìm kiếm

TIẾNG HÀ NỘI TRONG QUAN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT TOÀN DÂN


Tóm tắt Xem thử

- TIẾNG HÀ NỘI TRONG QUAN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT TOÀN DÂN.
- Tiếng Việt là ngôn ngữ chung của nước Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.
- Kể từ năm 1945 đến nay, mặc dù cụm từ “ngôn ngữ quốc gia” chưa xuất hiện trong các văn bản pháp lý, nhưng tiếng Việt thực sự đảm nhiệm chức năng ngôn ngữ quốc gia của nước Việt Nam thống nhất, xã hội chủ nghĩa, đa dân tộc, đa ngôn ngữ và đa văn hoá.
- Gắn với sự tồn tại và phát triển của tiếng Việt là các phương ngữ tiếng Việt, trong đó có tiếng Hà Nội..
- Trong tiếng Việt có một khái niệm gọi là tiếng dùng để thể hiện cho cả ngôn ngữ (language) và phương ngữ (dialect).
- Khi nói “tiếng Việt” thì tiếng có nghĩa là “ngôn ngữ”.
- khi nói “tiếng Hà Nội” thì tiếng có nghĩa là “phương ngữ”.
- Vì thế, trước hết, mối quan hệ tiếng Hà Nội và tiếng Việt toàn dân là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và phương ngữ: Tiếng Hà Nội là một phương ngữ của tiếng Việt..
- Tiếng Hà Nội là tiếng của người Hà Nội, theo đó, tiếng Hà Nội là phương ngữ địa lý của tiếng Việt toàn dân.
- Xét từ mối quan hệ giữa ngôn ngữ với phương ngữ địa lý (regional dialect), có thể thấy mối quan hệ giữa tiếng Hà Nội và tiếng Việt có một số đặc đặc điểm đáng chú ý như sau:.
- Với cách nhìn này, tiếng Hà Nội là một biểu hiện (biến thể) của tiếng Việt toàn dân.
- Điều này có thể nhận ra ở việc người Hà Nội trong giao tiếp nói không phân biệt các âm (ch.
- Nếu nhìn từ góc độ hiện nay của địa lý Hà Nội và người Hà Nội thì một số người Hà Nội ở địa bàn Gia Lâm, Đông Anh, Vĩnh Tuy, Đan Phượng, Phúc Thọ, thậm chí cả trong nội thành còn phát âm lẫn lộn giữa (n) và (l).
- một số người Hà Nội khi nói những từ có thanh huyền thường phát cao hơn thanh huyền của tiếng Việt toàn dân (như một số địa phương vùng Sơn Tây).
- Phạm vi sử dụng của phương ngữ hẹp hơn ngôn ngữ, theo đó, tiếng Hà Nội chỉ sử.
- dụng trong phạm vi Hà Nội còn tiếng Việt toàn dân sử dụng trong phạm vi toàn quốc..
- Với cách nhìn này, tiếng Hà Nội mang những đặc điểm cơ bản của tiếng Việt toàn dân và vì thế, những người nói tiếng Hà Nội có thể giao tiếp với những người nói các phương ngữ tiếng Việt trên khắp miền của Tổ quốc mà ít gặp các cản trở.
- Bên cạnh đó, tiếng Hà Nội còn có những đặc điểm riêng ở các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả trong giao tiếp.
- Chẳng hạn, ngoài cách phát âm nêu ở trên, người nghe còn cảm nhận được giọng của người Hà Nội có phần “nhẹ” hơn so với các vùng khác (ví dụ, so sánh với tiếng Việt phương ngữ miền Trung).
- Vì giọng “là một tập hợp các yếu tố ngữ âm khác nhau đồng thời xuất hiện khi phát âm và đồng thời được tiếp nhận khi nghe” (Hoàng Tuệ, 1999) nên chúng ta thường được nghe những cảm nhận về tiếng Hà Nội như “anh ấy nói tiếng Hà Nội”, “chị ấy nói giọng Hà Nội nhẹ nhàng”.
- Trong giao tiếp, có thể nhận ra cách phát âm thiên về mặt lưỡi đối với âm (ch) (chúng em, chúng mình) của các cô gái Hà Nội, cách xưng hô "cậu”, “mợ” trong các gia đình của người Hà Nội trước đây và xu hướng nhập cách xưng gọi “gì”, “thím”, “mợ” thành “cô”, “cậu” thành “chú” trong cách xưng hô của giới trẻ trong các gia đình Hà Nội hiện nay.
- Nếu nghiên cứu về địa danh Hà Nội sẽ thấy những đặc điểm riêng mà chỉ ở Hà Nội mới có, chẳng hạn, tên gọi.
- 36 “hàng” của đường phố Hà Nội (Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Bạc, Hàng Vôi, Hàng Bông, Hàng Đồng, Hàng Hành, Hàng Điếu,...)..
- Hà Nội là một thành phố vì thế, tiếng Hà Nội là phương ngữ thành thị của tiếng Việt toàn dân.
- Những đặc điểm trên thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa tiếng Hà Nội với tiếng Việt toàn dân: tiếng Hà Nội gần với tiếng Việt toàn dân đến mức một số ý kiến cho rằng, nên lấy tiếng Hà Nội làm tiếng Việt chuẩn mực (tiếng Việt toàn dân).
- Trong không ít trường hợp, những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới sử dụng trong tiếng Việt được bắt đầu từ tiếng Hà Nội, sau đó lan tỏa ra các vùng phương ngữ khác và trở thành cách dùng của tiếng Việt toàn dân.
- Điều này có thể chứng minh bằng tiếng Hà Nội trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước: nhiều từ mới, khái niệm mới, cách diễn đạt mới được sử dụng lần đầu trên.
- báo Hà Nội Mới sau đó trở thành từ ngữ, cách diễn đạt của tiếng Việt toàn dân..
- 538 TIẾNG HÀ NỘI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT TOÀN DÂN.
- Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, theo đó, tiếng Hà Nội còn có một cách gọi khác là tiếng Thủ đô (đầy đủ: tiếng Thủ đô Hà Nội).
- Thiết nghĩ, cần thiết phải giải quyết mối quan hệ giữa tiếng Hà Nội với tiếng Thủ đô trong sự tương quan với tiếng Việt toàn dân..
- Nếu nhìn Hà Nội như một địa phương của Việt Nam thì Hà Nội có những đặc điểm xã hội, lịch sử, văn hoá.
- chung của Việt Nam, đồng thời lại có những đặc trưng riêng làm nên Hà Nội và chỉ ở Hà Nội mới có.
- Ví dụ, trong văn chương cũng như nhạc hoạ Việt Nam thường nhắc đến hình ảnh của mái ngói xô nghiêng, những căn nhà chật hẹp ở phố Hàng Đào với cách sống rất riêng của họ, những quán cóc vỉa hè, những gánh hàng rong, nhịp sống thong thả, cách ăn nói điềm đạm của người dân Hà Nội "chính gốc.
- Đó là những nét đẹp truyền thống, mang hương vị riêng của Hà Nội.
- Nhưng, liệu những đặc điểm này có coi là những đặc điểm của Thủ đô Việt Nam - trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước? Từ sự liên hệ hơi có phần "giản đơn" như vậy, chúng tôi muốn nói đến mối quan hệ giữa tiếng Hà Nội và tiếng Thủ đô..
- Cũng giống như các phương ngữ khác, tiếng Hà Nội có nhiều các tiểu phương ngữ hay thổ ngữ (subdialects.
- Tiếng Hà Nội vùng Cổ Nhuế, Bát Tràng, Ba Vì.
- có thể coi là các thổ ngữ của tiếng Hà Nội.
- Như vậy, thiết nghĩ, với tên gọi Thủ đô nhưng Hà Nội vẫn có thể phân nhỏ thành các tiểu khu vực địa lý - hành chính khác nhau: có khu trung tâm, có khu ngoại ô, có khu cũ, khu mới.
- Mỗi khu có những đặc điểm riêng trong đó có biến thể của tiếng Hà Nội.
- Nhìn một cách tổng thể, tiếng Hà Nội có thể phân làm hai loại:.
- (1) Tiếng Hà Nội gần hoặc trùng với tiếng Việt toàn dân.
- Đó là tiếng Hà Nội của các cư dân Hà Nội lâu đời, ở khu trung tâm Hà Nội, tiếng Hà Nội trong giao tiếp công sở, tiếng Hà Nội trên các phương tiện truyền thông Hà Nội (Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, báo Hà Nội Mới và các báo chí khác của Hà Nội)..
- (2) Tiếng Hà Nội có đặc điểm khác với tiếng Việt toàn dân, tức là các biến thể của tiếng Hà Nội.
- Đó là tiếng Hà Nội của cư dân ở các vùng ven đô, các vùng ngoại ô, các thổ ngữ của tiếng Hà Nội, tiếng Hà Nội của các cư dân từ nơi khác nhập cư vào Hà Nội và vẫn còn mang ít nhiều giọng địa phương của mình..
- Từ cách nhìn này, có thể coi tiếng Thủ đô là tiếng Hà Nội (1), tiêu biểu, gần hoặc trùng với tiếng Việt toàn dân và được coi là phương ngữ đô thị tiêu biểu so với các phương ngữ đô thị khác của tiếng Việt toàn dân..
- Từ góc độ này có thể thấy, tiến trình phát triển của tiếng Việt gắn liền tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam.
- tiến trình phát triển của tiếng Hà Nội gắn liền tiến trình phát triển của Hà Nội.
- Vì thế, khi bàn về mối quan hệ giữa tiếng Hà Nội với tiếng Việt toàn dân không thể không thảo luận về hai khái niệm dễ thống nhất về mặt lý thuyết nhưng khó.
- thống nhất về thực tế, đó là khái niệm “tiếng Việt toàn dân” và khái niệm “tiếng Hà Nội”..
- Liên quan đến khái niệm tiếng Việt toàn dân, có một khái niệm ngôn ngữ học là “ngôn ngữ toàn dân”.
- Tạm gác lại những bàn thảo xung quanh khái niệm này liên quan đến ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ văn học, có thể coi “tiếng Việt toàn dân” là tiếng Việt chuẩn mực..
- Tiếng Việt toàn dân luôn phát triển trên một cơ tầng ổn định.
- Trong quá trình phát triển đó, nhiều yếu tố, hiện tượng của tiếng Việt lùi lại phía sau, trở thành cũ để nhường chỗ cho các yếu tố, các hiện tượng tiếng Việt mới.
- Hiện nay, tiếng Việt toàn dân đang có những thay đổi dưới tác động của hàng loạt các nhân tố xã hội ngôn ngữ, trong đó đáng chú ý là:.
- Điều này tạo nên mối quan hệ tương tác giữa các phương ngữ tiếng Việt, giữa tiếng Việt phương ngữ với tiếng Việt toàn dân cũng như sự tương tác giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam..
- Điều này tạo ra sự ảnh hưởng của tiếng Anh đối với các ngôn ngữ ở Việt Nam trong đó chủ yếu là tiếng Việt..
- Từ đây, khái niệm “tiếng Việt toàn dân” càng trở nên phức tạp hơn.
- Chẳng hạn, chúng ta thường nói đến chuẩn tiếng Việt trong đó có chuẩn phát âm tiếng Việt.
- Vậy, chuẩn của phát âm tiếng Việt toàn dân là gì khi mà cả Đài Truyền hình Trung ương (VTV), Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) đều sử dụng cả giọng Bắc và giọng Nam với những đặc điểm riêng, đều không phân biệt (tr) với (ch), (r) với (gi), (d.
- Chuẩn hoá tiếng Việt ở bình diện ngữ âm mới chỉ thực hiện được ở chữ viết (chính tả) chứ chưa thực hiện được ở giao tiếp nói..
- Cùng với việc chuẩn hoá chính tả cần phải chuẩn hoá ngữ âm tiếng Việt ở các mặt giao tiếp..
- 540 TIẾNG HÀ NỘI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT TOÀN DÂN.
- Một ví dụ khác, do sự thông thương giữa ba miền và tính năng động của nền kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, một số vùng phía Nam nói chung đã làm cho hàng loạt các từ ngữ, các cách nói vốn chỉ được coi là của “phương ngữ Nam Bộ” đang được dùng phổ biến trong cả nước, trong đó có Hà Nội và các từ ngữ này, cách nói này có thể thay thế hoặc phân bố lại cách dùng đối với các từ ngữ tiếng Việt toàn dân.
- Khái niệm tiếng Hà Nội, về mặt lý thuyết, có thể được hiểu là tiếng Việt của người Hà Nội.
- Vấn đề còn lại mà thực tế phải giải quyết là địa danh Hà Nội và người Hà Nội liên quan đến khái niệm tiếng Hà Nội..
- Địa danh Hà Nội đã thay đổi nhiều trong tiến trình lịch sử 1.000 năm.
- Ngày nay, địa danh Hà Nội ôm trọn cả tỉnh Hà Tây, một phần địa phận của Phúc Yên và Hoà Bình.
- là tiếng Hà Nội..
- Người Hà Nội là ai khi các nhân tài đất Việt đổ về Hà Nội và theo sau là cả một gia đình.
- khi những người con trai, con gái từ các miền khác của Việt Nam về làm dâu, rể Hà Nội.
- Kể từ khi xuất hiện nền kinh tế thị trường, dòng người đổ về Hà Nội ngày càng nhiều, người thì định cư ở đây, người thì đến rồi lại đi, rồi lại đến… Hàng năm có tới hàng triệu lượt người vào ra Hà Nội.
- Nhìn từ góc độ lý thuyết thích nghi (Theory of accommodationary) của ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics), mỗi người đến Hà Nội, tức là chuyển từ một cộng đồng giao tiếp (speech community) này sang một cộng đồng giao tiếp khác, đều một mặt, phải từ bỏ một số yếu tố tiếng địa phương của mình và tiếp nhận một số yếu tố của tiếng Hà Nội để hoà nhập vào cộng đồng giao tiếp Hà Nội, đồng thời, họ vẫn giữ và sử dụng một số yếu tố tiếng địa phương của mình trong giao tiếp xã hội và có thể giữ phần lớn các yếu tố tiếng địa phương của họ trong giao tiếp gia đình.
- Cách giao tiếp ấy đã tác động đến tiếng Hà Nội và cũng chính cách giao tiếp ấy đã “quảng bá” tiếng Hà Nội, làm cho tiếng Hà Nội lan toả ra các vùng khác mỗi khi họ về quê (tức là, tác động của tiếng Hà Nội đến các các phương ngữ khác của tiếng Việt)..
- Chính sự tác động của các nhân tố xã hội - ngôn ngữ như nêu ở trên nên không thể có một khái niệm tiếng Hà Nội chung chung mà chỉ có một khái niệm tiếng Hà Nội gắn với từng giai đoạn lịch sử, đó là tiếng Hà Nội theo phân kỳ lịch sử hoặc tiếng Hà Nội từ các góc nhìn khác nhau.
- Chẳng hạn, nếu Hà Nội có nội thành Hà Nội và ngoại thành Hà Nội thì phải chăng tiếng Hà Nội cũng có tiếng Hà Nội nội thành và tiếng Hà Nội ngoại thành (mà theo quan niệm truyền thống thì nội thành chỉ giới hạn trong 36 “hàng.
- Ví dụ, nhà văn Tô Hoài chỉ coi tiếng bờ hồ Hoàn Kiếm mới là tiếng Hà Nội, còn tiếng ngoại ô là tiếng các làng, “không nên xem ngang nhau tiếng bờ hồ Hoàn Kiếm hoặc chợ Đồng Xuân với tiếng vùng ngoại ô.
- Nội dung này cũng có thể thấy ở ý kiến của một số tác giả khác: “Trong thành phố Hà Nội và ngoại ô cũ, ngay một số làng ở tây bắc cách đây vài mươi năm còn phải phát âm dấu “sắc”, dấu “huyền” không giống ở bờ hồ Hoàn Kiếm hoặc chợ Đồng Xuân” (Lưu Hữu Phước).
- Với cách nhìn động về khái niệm Hà Nội và tiếng Việt toàn dân như trên thì mối quan hệ giữa tiếng Hà Nội với tiếng Việt toàn dân cũng phải được nhìn ở góc độ động.
- Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, Hà Nội sớm trở thành Thủ đô của nước Việt Nam.
- Với một ngàn năm lịch sử, Hà Nội là hồn thiêng sông núi, là đầu não, trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của cả nước, là nơi tụ họp của các bậc hiền tài, vì thế tiếng Thủ đô được hoàn thiện, trau dồi trên cơ sở của tiếng Hà Nội nên đã rất gần với tiếng Việt toàn dân, tiếng Việt văn học.
- Nếu nói không quá thì vòng ranh giới của tiếng Thủ đô và tiếng Việt toàn dân, tiếng Việt văn học đã gần như chồng lấp lên nhau (overlaping).
- Theo đó, tiếng Thủ đô với sức mạnh của đô thị hoá đã và đang lan toả, làm mờ dần tiếng Hà Nội ven đô cũng như các thổ ngữ Hà Nội.
- Trải qua 1.000 năm lịch sử, Hà Nội hôm nay đang mở rộng về mọi mặt từ không gian đến con người, đến kinh tế, văn hoá.
- Những nhân tố xã hội ấy đang tác động đến ngôn ngữ văn hoá Hà Nội nói chung, tiếng Hà Nội nói riêng.
- Có thể có người sẽ cho là quá lời khi chúng tôi cho rằng, dưới tác động của các nhân tố xã hội - ngôn ngữ hiện nay, tiếng Hà Nội đang mất dần những nét bản sắc đặc thù nhưng lại được cấp thêm những nét đa dạng: Những vùng đất mới và những con người mới ở vùng mở rộng Hà Nội đang đem đến cho Hà Nội những tiểu phương ngữ mới.
- những cư dân mới từ các nơi khác (cả trong nước và nước ngoài) đến sống và làm việc lâu dài hay tạm thời tại Hà Nội không chỉ mang đến cho tiếng Hà Nội những nét phương ngữ mới mà còn tạo ra một thứ phương ngữ pha trộn (mixing) được tạo ra từ sự giao thoa giữa tiếng mẹ đẻ của họ và tiếng Hà Nội.
- sự phân tầng xã hội với việc hình thành các nhóm xã hội tại Hà Nội cũng đang làm xuất hiện các biến thể tiếng Hà Nội như biến thể tiếng Hà Nội của cư dân mạng Hà Nội, biến thể tiếng Hà Nội của các ông chủ và của người làm thuê ở Hà Nội, biến thể tiếng Hà Nội của các tiểu thương Hà Nội, của giới học sinh, sinh viên Hà Nội và cả biến thể tiếng Hà Nội của những nhóm người “sống trong bóng tối” ở Hà Nội.
- Những biến động ấy không ít thì nhiều đã và đang tác động đến tiếng Hà Nội nói chung, tiếng Thủ đô nói riêng..
- Trước tình hình này, thiết nghĩ cần có những đầu tư nghiên cứu về tiếng Hà Nội, một mặt để giữ lại tất cả các biến thể của tiếng Hà Nội, nhất là các thổ ngữ đang có nguy cơ mất đi nhanh chóng trước tác động của đô thị hoá với sự ảnh hưởng của tiếng Việt toàn dân và tác động của toàn cầu hoá với sự ảnh hưởng của tiếng Anh.
- mặt khác, cũng là để phát huy vị thế của tiếng Hà Nội mà tinh hoa là tiếng Thủ đô, góp phần vào xây dựng, phát triển.
- và hiện đại hoá Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước..
- 542 TIẾNG HÀ NỘI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT TOÀN DÂN.
- Hoàng Thị Châu, Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học), NXB Khoa học Xã hội, 1989.
- Trịnh Cẩm Lan, “Sự biến đổi cách phát âm của cộng đồng người Nghệ Tĩnh ở Hà Nội”, trong.
- Nguyễn Đức Tồn, “Về các khái niệm tiếng Hà Nội, tiếng Thủ đô với các khái niệm liên quan (ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ văn học, phương ngữ nông thôn.
- Hoàng Tuệ, “Những vấn đề về phát âm tiếng Việt”, trong Ngôn ngữ phương tiện thông tin đại chúng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
- Nguyễn Văn Khang, “Về khái niệm tiếng Hà Nội”, trong Hà Nội - những vấn đề ngôn ngữ văn hoá, NXB Văn hoá - Thông tin, 2001.
- Nguyễn Văn Khang, “Những vấn đề chuẩn hoá ngôn ngữ và chuẩn hoá tiếng Việt”, tạp chí Ngôn ngữ, số