« Home « Kết quả tìm kiếm

TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ Ở VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ RỪNG


Tóm tắt Xem thử

- Nhưng bao quanh làng của người Hà Nhì vẫn còn những cánh rừng già với những cây cổ thụ, dây leo chằng chịt.
- Vì sao trên cùng một vùng đất, trong khi làng của nhiều tộc người khác trơ trụi cây xanh thì làng của người Hà Nhì vẫn còn những cánh rừng già? Tri thức bản địa về bảo vệ rừng của người Hà Nhì ra sao để bảo vệ được những cánh rừng nguyên sinh? Trong điều kiện hiện nay, tri thức bản địa về bảo vệ rừng của người Hà Nhì còn phát huy được tác dụng hay không? Đó là những vấn đề chúng tôi muốn đề cập trong báo cáo khoa học này..
- Người Hà Nhì ở Việt Nam.
- Người Hà Nhì ở Việt Nam hiện nay có khoảng 26.000 người.
- Dựa theo đặc điểm trang phục, người Hà Nhì có thể chia làm hai ngành chính: Hà Nhì hoa và Hà Nhì đen..
- Người Hà Nhì đen có khoảng 10.000 người, ở tỉnh Lào Cai có gần 4.000 người (cư trú tại các xã Ý Tý, Nậm Pung, Ngải Thầu, A Lù, Trịnh Tường).
- Người Hà Nhì đen còn sinh sống ở huyện Sìn Hồ (3.210 người), huyện Phong Thổ (2.733 người).
- Người Hà Nhì hoa ở Mường Tè – tỉnh Lai Châu (10.460 người), huyện Mường Nhé – tỉnh Điện Biên (5.500 người)..
- Người Hà Nhì hoa có thể chia làm hai nhóm: nhóm Hà Nhì Cồ Chồ (người Hà Nhì ở vùng thấp) cư trú ở xã Bum Nưa, Mù Cả, Nậm Hạ.
- nhóm Hà Nhì La Mí (người Hà Nhì ở vùng cao, vùng thượng nguồn) cư trú ở xã Cán Hồ, xã Mù Cả, huyện Mường Tè – tỉnh Lai Châu và xã Sín Thầu, Chung Chải, huyện Mường Nhé – tỉnh Điện Biên 1.
- Tri thức bản địa của người Hà Nhì với vấn đề bảo vệ rừng.
- Tri thức bản địa của người Hà Nhì với vấn đề bảo vệ rừng bao gồm toàn bộ những hiểu biết của người Hà Nhì về rừng.
- Người Hà Nhì quan niệm rừng và cây rừng, con thú trong rừng đều có linh hồn như con người.
- Người Hà Nhì Cồ Chồ ở bản Mù Cả, xã Mù Cả, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu lại có truyền thuyết về thần rừng “A Pố Xả Kha.
- Khi gieo hạt cho một vụ mùa mới, người Hà Nhì bao giờ cũng phải khấn hồn cây và thần Rừng “A Pố Xả Kha”.
- Khi vào rừng kiếm củi, hái rau, chặt cây, người Hà Nhì cũng phải cúng thần Rừng, cầu xin thần cho hái rau, chặt cây.
- Trong quan niệm của người Hà Nhì, có hai loại thần cai quản cây rừng.
- phạt như Xá Xí Khà Là Cộ (ma người chết do hổ vồ), Xá Xí Khà Ngú Cộ (ma người chết do gấu vồ), Xá Xí Ô Ló Tụ (ma người chết do rắn cắn)… Như vậy, quan niệm về rừng, nhìn nhận về rừng của người Hà Nhì vừa phản ánh mối quan hệ thân thiện hoà hợp với rừng, vừa linh thiêng hoá rừng.
- Người Hà Nhì cho rằng nhiều loài động thực vật có linh hồn như con người, một số loài động thực vật là vật tổ của các dòng họ như: sóc là vật tổ của họ Dờ, hổ là tổ tiên của họ Ché.
- Với quan niệm như vậy, người Hà Nhì đặc biệt quan tâm đến rừng, có thái độ kính trọng, sợ hãi hoặc chăm sóc rừng, cây rừng như đối với người thân, bề trên của mình.
- Mặt khác, người Hà Nhì còn tạo ra cơ chế thiêng bảo vệ rừng:.
- Các khu rừng cấm, rừng thiêng và việc bảo vệ rừng.
- Thôn trại của người Hà Nhì gọi là “phu”.
- Một “phu” của người Hà Nhì đen ở Bát Xát, tỉnh Lào Cai có 4 khu rừng cấm thờ “Gà ma do”, “Mu thu do”, thờ thần “Thủ ty”, rừng vui chơi “A Gờ Là Do”.
- Một “phu” Hà Nhì hoa ở Lai Châu cũng có 3 khu rừng cấm, rừng thiêng là khu rừng thờ “Gà ma thú”, rừng thờ.
- Các khu rừng này bao bọc quanh thôn trại.
- Ở vùng người Hà Nhì, rừng thiêng quan trọng nhất là rừng thờ thần hộ mệnh của thôn trại (người Hà Nhì đen gọi là “Gà ma do”, người Hà Nhì hoa gọi là.
- Người Hà Nhì hoa ở Lo Ma (Gạ Loong), xã Ka Lăng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu có phong tục chọn rừng thiêng một cách độc đáo.
- Ven rừng thiêng, người Hà Nhì hoa trồng cây gai “Păng hợp” làm hàng rào ngăn cách khu rừng thiêng với khu dân cư.
- Theo quan niệm của người Hà Nhì hoa, cây gai “Păng hợp” có tác dụng kỵ ma, rào ngăn cách rừng với thôn trại.
- Hà Nhì chọn một cây thần là loại cây có quả, dáng cây phải cao, thẳng đứng..
- Người Hà Nhì đen ở huyện Bát Xát thường chọn cây “chua chát” (sơn tra) có quả làm cây thần.
- Người Hà Nhì hoa ở Mù Cả, Mường Tè lại chọn cây gạo làm cây thần.
- Người Hà Nhì hoa ở “phu” Gạ Loong, xã Mù Cả chọn cây thông cổ thụ trong rừng làm cây thần.
- Dưới Gốc cây thần, người Hà Nhì xếp 2 phiến đá vuông góc với nhau làm miếu thờ thần cây.
- Theo quan niệm của người Hà Nhì, thần Rừng thiêng (trú ngụ trong miếu thờ cây thiêng) có cả vợ được thờ cúng.
- Rừng thiêng “Gà ma do” là nơi thờ cúng thần bảo vệ bản mệnh cho cả “phu” người Hà Nhì.
- Vì vậy, người Hà Nhì cấm mọi người vào rừng thiêng.
- Đây là loại cây cao, to, cành lá sum suê, người Hà Nhì gọi là “Si san”.
- Dưới gốc cây thần, người Hà Nhì đen dựng hình miếu thờ nhỏ bằng ba hòn đá.
- Người Hà Nhì đen ở Bát Xát còn quan niệm thần rừng “Thủ ty” có chức năng bảo vệ gia súc, gia cầm, chống dịch bệnh..
- Người Hà Nhì đen ở Bát Xát (Lào Cai), Phong Thổ (Lai Châu) còn có khu rừng thiêng thứ ba là khu rừng thờ “Mu thu do”.
- Theo quan niệm người Hà Nhì đen ở Bát Xát, tỉnh Lào Cai, thần Rừng thờ “Mu thu do” là nữ thần và là vợ của thần Rừng “Gà ma do”.
- Người Hà Nhì đen chọn ngày con ngựa (Mò no) tháng 3 cúng thần Rừng “Mu thu.
- Nữ thần Rừng “Mu thu do”.
- Sau nghi lễ cúng rừng “Mu thu do”, người Hà Nhì đen còn có lễ mở cửa rừng.
- Ngay sau lễ mở cửa rừng, người Hà Nhì ở Bát Xát thực hiện lễ rào rừng thiêng “Mu thu do”..
- Ở thôn Lao Chải, xã Ý Tý, người Hà Nhì lại tiến hành rào rừng vào đúng buổi sáng sớm của lễ cúng rừng “Mu thu do”.
- Nữ thần Rừng “Mu thu do” có chức năng phù hộ sự sinh sôi, phát triển nên ở nhiều thôn, người Hà Nhì đen còn gắn lễ cúng rừng “Mu thu do” với lễ gieo mạ “Gu xè xè”.
- Người Hà Nhì còn có khu rừng cấm khác là khu rừng vui chơi, ca hát “A gờ la do”.
- Khu rừng này là địa điểm tổ chức lễ hội “Khô zà zà” của người Hà Nhì đen (hoặc lễ hội “Gié khu chà” của người Hà Nhì hoa).
- Người Hà Nhì hoa ở thôn trại Gạ Loong, xã Ka Lăng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu có rừng cấm “Xó Xí”.
- Đây là khu rừng để chôn người chết.
- Rừng “Xó Xí”.
- Đường dẫn vào rừng cấm “Xó Xí” là đường mòn, cây cối um tùm, mỗi năm người Hà Nhì phát quang đoạn đường này một lần vào ngày mồng 2/2.
- Toàn bộ khu vực chôn người chết của các dòng họ đều còn nhiều cây to cổ thụ, người Hà Nhì không được phép chặt.
- Khi chôn người chết, người Hà Nhì phải chặt bớt cây con, cành khô trong khu vực cũng phải để riêng, không bỏ cây con đã chặt sang khu vực chôn người chết ở cánh rừng của dòng họ khác.
- Quan niệm rừng ma, hồn ma trú ngụ trên cây luôn chi phối các nghi thức tang ma của người Hà Nhì, tạo thành niềm tin thiêng liêng bảo vệ khu rừng cấm “Xó Xí” chôn người chết..
- Như vậy, thôn trại “phu” của người Hà Nhì đã được bao bọc bởi hệ thống các khu rừng cấm, rừng thiêng quanh thôn trại.
- Ở phía dưới (thông thường ở phía bên trái thôn trại) là khu rừng thờ “Mu thu do”.
- Người Hà Nhì đen ở Bát Xát quan niệm rừng “Gà ma do” là nam thần, là người chồng của khu rừng thiêng “Mu thu do”.
- Hàng năm, vào ngày con rồng của tháng 6, người Hà Nhì đen ở Bát Xát đều tổ chức lễ “Khu zà zà” ở khu rừng này..
- Hệ thống các khu rừng thiêng, rừng cấm bao quanh thôn trại đã góp phần tăng yếu tố thiêng trong ý thức bảo vệ rừng của người Hà Nhì.
- Các khu rừng cấm, rừng thiêng được bảo vệ nghiêm ngặt.
- Người Hà Nhì không được chặt cây rừng, thậm chí không được lấy cành cây khô trong rừng (trừ ngày lễ cúng rừng hoặc mở cửa rừng)..
- Ngoài các khu rừng cấm, người Hà Nhì còn có các khu rừng thuộc sở hữu chung của cộng đồng thôn trại gọi là “Li Xo Tá Cha”.
- Người Hà Nhì còn tổ chức các cuộc săn bắt ở khu rừng chung này nhưng theo quy ước nhất định nhằm bảo vệ rừng, bảo vệ các thú nhỏ..
- Các khu rừng thiêng, rừng cúng của người Hà Nhì đều được cả thôn trại bảo vệ.
- Hàng năm, người Hà Nhì tổ chức bầu 2 người vừa chủ trì các lễ cúng ở rừng, vừa thay mặt cộng đồng quản lý các khu rừng thiêng, rừng cấm.
- Theo quan niệm của người Hà Nhì, thầy cúng làm các nghi lễ cúng rừng, quản lý rừng cấm, rừng thiêng ở thôn trại đều do thần linh lựa chọn.
- Ngoài cộng đồng các “phu” (thôn, trại), người Hà Nhì còn xây dựng cả một hệ thống luật tục bảo vệ rừng.
- Luật tục của người Hà Nhì bao gồm tục lệ của các.
- Luật tục bảo vệ rừng của người Hà Nhì còn bao gồm các quy định về việc hướng dẫn cách ứng xử đối với rừng và các sản vật trong rừng nhằm bảo vệ rừng..
- Như phần trên đã phân tích, quan niệm về thần Rừng, về chức năng của rừng thiêng với vận mệnh của cộng đồng “phu” (thôn, trại) của người Hà Nhì đã tạo nền tảng cho tục lệ ứng xử giữa con người với rừng.
- Khảo sát ở “phu” Lao Chải, Ý Tý, Bát Xát (tỉnh Lào Cai) và “phu” Gạ Loong (Lo Ma) xã Ka Lăng, huyện Mường Tè (tỉnh Lai Châu) có thể nhận thấy các quy định bảo vệ rừng của người Hà Nhì tương đối có hệ thống.
- người Hà Nhì ở Ka Lăng cấm ngặt không cho người và gia súc vào.
- Ở vùng người Hà Nhì đen Bát Xát, ngày thường người dân có thể vào rừng cấm, rừng thiêng nhưng tuyệt đối không được lấy bất cứ thứ gì của rừng.
- Việc bảo vệ các khu rừng chung của cộng đồng thôn, trại và rừng đầu nguồn Các thôn, trại Hà Nhì đều có những khu rừng thiêng thuộc sở hữu của chung cộng đồng.
- Nhưng ở vùng Mường Tè, người Hà Nhì hoa thường chọn khu rừng chung là cánh rừng nguyên sinh, rừng già, nhiều gỗ tốt (như rẻ, thông…) làm rừng chung của cộng đồng.
- Hàng năm, người Hà Nhì hoa tổ chức 3 đến 4 lần mở cửa rừng để dân thôn, trại được vào khai thác sản phẩm của rừng.
- Khi lấy gỗ làm nhà, chặt cây rừng, người Hà Nhì phải làm lễ cúng thần Rừng, xin phép thần Rừng cho chặt cây.
- Người Hà Nhì hoa ở xã Mù Cả, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu quan niệm: Khi chặt cây, khai thác gỗ phải tiến hành các nghi thức “mua bán” với thần Rừng.
- Mỗi lần chặt một cây to hơn một vòng tay người ôm, người Hà Nhì hoa phải trả cho thần Rừng một số tiền (tượng trưng bằng các hòn sỏi, hòn đá cuội nhặt ở ven suối, ven sông).
- Trường hợp lấy gỗ về làm quan tài cho người chết, người Hà Nhì hoa ở xã Mù Cả, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu phải trả cho thần Rừng bằng trứng và gạo.
- Trước khi chặt cây, người Hà Nhì tung quả trứng vào gốc cây, tung nắm gạo xung quanh gốc cây và đọc bài cúng:.
- Nhằm bảo vệ rừng, quy ước của các “phu” người Hà Nhì quy định cụ thể không tổ chức mở cửa rừng vào đầu xuân, không chặt cây mùa xuân khi cây đâm chồi, nảy lộc.
- Đối với việc săn bắt thú, vào mùa thú sinh sản, người Hà Nhì cũng không đi săn.
- Đặc biệt đối với chim thú sống theo bầy đàn, người Hà Nhì cũng nghiêm cấm việc quây bắt cả đàn, cả bầy.
- Vì vậy trong bộ công cụ săn của người Hà Nhì cũng vắng bóng các kiểu bẫy đàn (như bẫy lưới, bẫy chuồng, bẫy bằng hố chông…)..
- Lễ vật dâng cúng nộp phạt như vậy là rất nặng so với thu nhập của một gia đình người Hà Nhì.
- Kết quả là các khu rừng của người Hà Nhì được bảo vệ.
- Hiện tượng phá rừng do người Hà Nhì gây nên không xảy ra.
- chứ không phải là người Hà Nhì..
- 1) Người Hà Nhì ở Việt Nam có cơ chế bảo vệ rừng chặt chẽ.
- Đồng thời mỗi “phu” của người Hà Nhì còn có bộ máy quản lý bảo vệ rừng hiệu quả (vai trò của Mí Cù, La Chạ, Già làng, Trưởng bản).
- 2) Hiện nay, ở một số vùng của người Hà Nhì, do cư trú đan xen với các tộc người khác, do mật độ dân số tăng cao và do trình độ nhận thức được nâng lên, sự giải thiêng đã xảy ra.
- 3) Trước thực trạng này, cần phát huy các yếu tố tích cực trong tri thức bản địa của người Hà Nhì đối với việc bảo vệ rừng, đồng thời cần duy trì và có chính sách bảo vệ các khu rừng công (kể cả rừng cấm, rừng thiêng), chính sách đề cao quyền sở hữu của cộng đồng đối với rừng, trao quyền quản lý rừng công lâu dài cho cộng đồng người Hà Nhì..
- Hy vọng rằng kết hợp giữa tri thức bản địa, vận dụng luật tục kết hợp với luật pháp sẽ là giải pháp hữu hiệu bảo vệ rừng ở vùng người Hà Nhì Việt Nam..
- 1 Chu Thuỳ Liên, Tìm hiểu văn hoá dân tộc Hà Nhì ở Việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2004, tr.23..
- 3 Bùi Quốc Khánh, Tập quán quản lý và khai thác rừng của người Hà Nhì ở Mường Tè - Lai Châu, Tài liệu lưu trữ của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lai Châu, 2008.