« Home « Kết quả tìm kiếm

Triết lý quân sự truyền thống Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Qua hàng ngàn năm đấu tranh chống ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập, chủ quyền đất nước, tổ tiên ta đã đúc kết nhiều kinh nghiệm quý báu, trong đó có những triết lý quân sự – bộ phận quan trọng cấu thành triết lý truyền thống Việt Nam.
- Tuy nhiên, triết lý truyền thống nói chung, triết lý quân sự của tổ tiên nói riêng còn ít được nghiên cứu.
- Cho tới nay, chưa có một công trình nghiên cứu riêng về triết lý quân sự truyền thống Việt Nam.
- Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu triết lý quân sự truyền thống của dân tộc sẽ góp phần làm rõ cơ sở của những tư tưởng quân sự độc đáo, đặc sắc, đồng thời tìm ra những triết lý cần kế thừa, phát triển trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay..
- Bàn về khái niệm triết lý, các nhà nghiên cứu ở nước ta cho rằng, tuy ở phương Tây không có sự phân biệt giữa triết lý và triết học, nhưng trong tiếng Việt lại quan niệm đó là những khái niệm khác nhau, dùng để biểu đạt và phản ánh những đối tượng khác nhau.
- Các tác giả sách Triết lý phát triển ở Việt Nam – Mấy vấn đề cốt yếu nêu định nghĩa: “Triết lý là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội.
- Bên cạnh đó, các tác giả sách Triết lý phát triển C.
- Lênin và Hồ Chí Minh nêu quan điểm: “Triết lý có thể thể hiện bằng một mệnh đề hàm súc những ý nghĩa về nhân tình thế thái.
- Triết lý đúng và khoa học thì nó trở thành cơ sở lý luận khoa học cho một hệ thống quan điểm, học thuyết.
- Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam..
- Như vậy, so với triết học, triết lý có thể được hiểu ở trình độ thấp hơn, chỉ là cơ sở lý luận của một hệ thống quan điểm, một học thuyết và theo nghĩa ở mức độ cao, nó chính là những quan niệm, tư tưởng sâu sắc nhất của con người về các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhưng dù hiểu theo cách nào, cũng có thể thấy rằng, triết lý không phải là một cái gì duy tâm, siêu hình, mà nó là kết quả của những kinh nghiệm và lẽ sống của nhiều thế hệ đi trước đúc kết lại.
- Tất nhiên, triết lý nào cũng vừa có tính giai cấp vừa có tính lịch sử..
- Quy tụ một số định nghĩa và cách giải thích về triết lý đã công bố, chúng tôi cho rằng, triết lý quân sự của tổ tiên là nhận thức và kinh nghiệm thiết thân của các thế hệ đi trước, được đúc kết lại dưới hình thức các mệnh đề hoặc tư tưởng về quân sự.
- có giá trị định hướng cho hoạt động của con người và cộng đồng trong việc giải quyết các vấn đề quân sự của dân tộc.
- Triết lý quân sự của tổ tiên có nội dung rất phong phú, đa dạng và thể hiện trong mọi mặt hoạt động quân sự, song tập trung nhất ở các vấn đề xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, huy động lực lượng, cách thức lựa chọn, sử dụng phương thức đấu tranh và vận dụng nghệ thuật quân sự để giành chiến thắng, như:.
- Một là, nêu cao tinh thần chiến đấu chống xâm lược để giữ nước, giữ nhà với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước”, quyết không chịu làm nô lệ..
- Dân tộc Việt Nam từ khi dựng nước đã vượt qua bao gian nan thử thách của thiên tai, địch hoạ, từng bước tạo dựng nên một quốc gia có nền kinh tế phong phú, một chế độ xã hội ổn định và một nền văn hoá khá phát triển.
- Gắn bó máu thịt với đất nước, các thế hệ người Việt sớm có ý thức tự hào mình là một dân tộc riêng, có tiếng nói riêng, làm chủ một lãnh thổ giàu đẹp và có nền văn hoá riêng của mình.
- Họ chỉ mong muốn được sống hoà bình, hữu nghị với các dân tộc khác để được yên ổn làm ăn, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc..
- Nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng”, kẻ thù xâm lược hết lần này lượt khác luôn uy hiếp, đe doạ cướp nước ta, đồng hoá nhân dân ta, luôn gây nên những cuộc chiến tranh đẫm máu nhằm thôn tính nước ta, biến nước ta thành quận huyện của chúng và bắt dân ta sống đời nô lệ.
- Tình thế đó buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí chiến đấu và phải đánh thắng để chúng tồn tại và phát triển..
- Với kinh nghiệm thiết thân của bao đời trong công cuộc dựng nước và giữ nước, tổ tiên ta có nhận thức sâu sắc về sự nghiệp chiến đấu thiêng liêng của mình, đó là cuộc chiến đấu để giữ nước và giữ nhà, gắn giữ nước với giữ nhà, giữ nhà gắn với giữ nước.
- quyền lợi, sinh mệnh của Tổ quốc Việt Nam.
- ngược lại, nước mất thì nhà tan, mất nước là mất tất cả, mất cả cơm no áo ấm, mất cả hạnh phúc gia đình, mất cả quyền sống và mất cả nền văn hoá dân tộc.
- Ông gợi lên nỗi khổ nhục chung nếu để mất nước: “Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết dường nào! Chẳng những thái ấp của ta bị tước mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị người khác bắt đi, chẳng những xã tắc tổ tông của ta bị người khác giày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị người khác bới đào, chẳng những thân ta kiếp này bị nhục, dẫu trăm đời sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu mãi còn, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là viên bại tướng” 4.
- Các thế hệ người Việt Nam luôn sẵn sàng tham gia cuộc chiến đấu chống xâm lược với tinh thần “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”, như Trần Bình Trọng ở thế kỷ XIII bị sa vào tay giặc Mông – Nguyên đã khước từ mọi sự dụ dỗ mua chuộc của kẻ thù và khảng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.
- những tiếng hô “Quyết đánh” của các bô lão đời Trần tại Hội nghị Diên Hồng, tinh thần chiến đấu của Lê Phụ Trần, Trần Quốc Toản.
- trong khởi nghĩa chống Minh là những biểu hiện khí phách quật cường, bất khuất của cả dân tộc quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giống nòi..
- Tinh thần chiến đấu giữ nước, giữ nhà đã ăn sâu vào trí óc và tình cảm của mỗi người dân, trở thành ý thức thường trực của các thế hệ người Việt, như Nguyễn Huệ tổng kết: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng (tức là bọn phong kiến phương Bắc) đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
- Tất cả những điều đó chứng tỏ tổ tiên ta sớm có nhận thức rõ ràng và sâu sắc về mục tiêu chiến đấu của mình, hiểu rõ lý do vì sao mình phải chiến đấu chống quân thù.
- Ý chí chiến đấu, lòng căm thù giặc, quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược đã biến thành hành động, dám hy sinh vì nước, vì nhà của bao thế hệ người Việt Nam..
- Cuộc đấu tranh lâu dài và quyết liệt với cả thiên nhiên khắc nghiệt lẫn giặc ngoại xâm tàn bạo của nhiều thế hệ đã tạo ra cho người Việt một ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc hết sức mạnh mẽ.
- Theo thời gian, ý thức đó ngày càng được bồi đắp, trở thành lòng yêu nước, thương nòi, cơ sở quan trọng để thực hiện đoàn kết dân tộc và huy động toàn dân chống xâm lược..
- Nhận thức được điều đó, tổ tiên ta luôn biết động viên, tổ chức được lực lượng toàn dân vào cuộc chiến đấu chống những kẻ thù ngoại xâm lớn mạnh.
- Khoan hoà giúp đỡ quần chúng, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng.
- Cho nên, khi dẫn quân vào đất Tống (năm 1075) triệt phá các căn cứ quân sự của giặc ở Ung – Khâm – Liêm, ông đã huy động được cả quân triều đình, quân địa phương vùng miền núi và đông đảo nhân dân đi theo, đến mức sử nhà Tống còn ghi: trong quân Lý có nhiều đàn bà, trẻ con và “man dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà” 7.
- Đến thế kỷ XIII, trước hiểm hoạ xâm lược của giặc Mông – Nguyên, nhà Trần yết bảng lệnh cho: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” 8 .
- Trong cuộc chiến tranh chống Minh ở thế kỷ XV, Bộ thống soái Lam Sơn không những hiểu rõ sức mạnh của tinh thần yêu nước và chính nghĩa, sức mạnh của nhân dân, mà còn biết dựa vào dân, đoàn kết nhân dân và tổ chức nhân dân đánh giặc cứu nước.
- Vì vậy, quân khởi nghĩa không chiến đấu đơn độc, lẻ loi mà luôn được sự hưởng ứng, tham gia nhiệt tình của tất cả các tầng lớp nhân dân yêu nước.
- Nghĩa quân đi đến đâu cũng “gạo nước đón rước, người theo đường đầy” và nhân dân khắp nơi đều “dắt díu nhau tới đông vui như đi chợ” 9 .
- Cho nên, sức mạnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không chỉ đơn thuần là sức mạnh của nghĩa quân mà còn là sức mạnh đoàn kết đấu tranh của toàn dân.
- Chính sức mạnh của nhân dân đã đưa cuộc chiến tranh giải phóng chống Minh từ chỗ “Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần/ Lúc Khôi Huyện quân không một lữ” đến “Ôi! Một gươm đại định nên công oanh liệt vô song/ Bốn biển thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn” 10.
- Đồng thời, các lãnh tụ phong trào còn ban bố chính sách “đổi ấp làm đội, biên hết dân làm binh” 11 nhằm huy động sự đóng góp sức người, sức của các làng xã vào cuộc chiến đấu.
- Trong trận tiến công quân Thanh ở Thăng Long đầu xuân Kỷ Dậu (1789), nghĩa quân đã được đông đảo nhân dân Bắc Hà hưởng ứng, khiến cho quân “đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như nước thuỷ triều dâng” và nhanh chóng giành toàn thắng..
- Như vậy, trải qua cuộc đấu tranh trường kỳ vì độc lập tự chủ của đất nước, việc động viên cả nước ra đánh giặc đã trở thành kinh nghiệm thiết thân, sống còn của dân tộc ta trong mọi thời kỳ lịch sử.
- Khái quát bài học kinh nghiệm đó, tổ tiên ta đã đúc kết thành triết lý, phương châm hành động “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
- Điều đó có ngụ ý rằng, khi đất nước bị xâm lược thì ai cũng phải đánh giặc và ai cũng đánh được giặc, kể cả phụ nữ chân yếu tay mềm.
- mặt khác, đánh quân xâm lược không chỉ có lực lượng vũ trang mà còn có đông đảo nhân dân, trong đó phụ nữ cũng tham gia.
- Đó là cơ sở triết lý của quan điểm “Chúng chí thành thành” (ý chí quần chúng là bức tường thành của đất nước), “tận dân vi binh”.
- là những tư tưởng quân sự lớn, độc đáo của tổ tiên ta..
- Các cuộc chiến tranh do kẻ thù xâm lược gây ra với nước ta trước đây đều có chung bản chất phi nghĩa tàn bạo với thủ đoạn khủng bố, cướp bóc bằng bạo lực là chủ yếu, kết hợp với thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp.
- hoàn cảnh đó, tổ tiên ta sớm biết nêu cao ngọn cờ đại nghĩa, vạch trần bản chất xấu xa của kẻ thù, cổ vũ tinh thần yêu nước, căm thù giặc trong lòng quân đội và nhân dân để tạo ra và nhân lên nguồn sức mạnh của sự nghiệp kháng chiến cứu nước..
- Đi đôi với việc dùng sức mạnh quân sự tiêu diệt địch trên chiến trường, nhân dân ta đã biết phát huy sức mạnh chính nghĩa của chiến tranh yêu nước đánh vào chính trị, tinh thần binh lính địch, vốn là chỗ yếu chí mạng của kẻ xâm lược phi nghĩa.
- Cho nên, trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, tổ tiên ta làm tuyên truyền không chỉ trong nội bộ quân và dân nước mình, mà tuyên truyền với cả quân và dân nước địch.
- Điển hình như trong chiến tranh giải phóng chống Minh (thế kỷ XV), Nguyễn Trãi viết Bình Ngô sách mà tư tưởng xuyên suốt không phải là đánh thành mà là đánh vào lòng người.
- Các hoạt động ấy được phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự làm hao mòn tinh thần và sức chiến đấu của quân xâm lược và góp phần vào thắng lợi của chiến tranh yêu nước..
- Bên cạnh đó, tổ tiên ta còn sớm nhận biết và nêu lên tính chất bất đắc dĩ của các cuộc chiến tranh mà nhân dân phải tiến hành.
- Bởi vì, dù nhân dân ta vốn không muốn chiến tranh, nhưng kẻ thù cố tình cướp nước ta, nên ta phải cầm vũ khí chiến đấu.
- Cuộc chiến đấu đó là bất đắc dĩ và “bất đắc dĩ phải dụng binh” vì nhân dân ta không có con đường nào khác.
- Sau này, sử gia Ngô Thời Sỹ cũng khái quát lên tính chất bất đắc dĩ của các cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta “đều là do giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến” 13 .
- Dựa vào cái lẽ bất đắc dĩ ấy, tổ tiên ta đã mài sắc thêm lòng căm thù giặc, kích thích thêm tinh thần yêu nước và lôi cuốn tập hợp được toàn dân đứng lên chiến đấu chống xâm lược..
- Đồng thời, trong hoàn cảnh chiến đấu chống các thế lực xâm lược lớn mạnh gấp nhiều lần, tổ tiên ta luôn biết kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, tránh “độc binh cùng vũ”, không ỷ vào vũ lực, không lấy vũ lực làm giải pháp duy nhất để giành thắng lợi.
- Do đó, mỗi khi giành được thắng lợi quân sự quyết định trên chiến trường, thì ta dùng ngoại giao tiến công buộc địch chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước.
- Đánh để đi tới đàm phán, vừa đánh vừa đàm, kết hợp tiến công quân sự và tiến công ngoại giao là phương thức chiến tranh được đề cao, nhất là Nguyễn Trãi coi đây là kế sách lâu dài để “Tắt muôn đời chiến tranh.
- Bởi vậy, trong cuộc chiến tranh chống Minh, sau khi đánh tan đạo viện binh Liễu Thăng và Mộc Thạnh, Bộ chỉ huy nghĩa quân chủ trương “lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được nghi” 15 , chủ động đẩy mạnh đàm phán với đối phương để kết thúc chiến tranh, mở đường cho giặc được “toàn quân về nước” và “nếu như muốn kéo quân về nước, thì cầu đường sửa xong, thuyền ghe sắm đủ, thuỷ lục hai đường, tuỳ theo ý muốn đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần” 16 , thực chất là khiến quân Minh rút về nước trong danh dự.
- Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao” 17 .
- Có lẽ trong lịch sử quân sự thế giới, hiếm có vị chủ tướng dụ các tướng sỹ và nhân dân nước mình về thái độ ứng xử trước kẻ thù với lời lẽ đầy nhân nghĩa, cao thượng và chính trực đến thế.
- Đó cũng là biểu hiện sâu sắc tính nhân nghĩa, nhân văn cao cả của sự nghiệp đánh giặc giữ nước Việt Nam, của triết lý và văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam..
- Do phải thường xuyên chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, quân số đông, nên tổ tiên ta sớm biết tìm tòi, sáng tạo những cách đánh độc đáo để giành thắng lợi.
- Tuy mỗi thời mỗi khác, nhưng nhìn chung ông cha ta đều biết dựa vào địa hình quen thuộc của đất nước để tạo ra sức mạnh chống giặc..
- Thực tế cho thấy, ngay từ thế kỷ II tr.CN, người Việt đã biết lợi dụng thế hiểm yếu của địa hình, kiên trì chiến đấu hàng chục năm ròng, ngày thì trốn vào núi sâu rừng rậm, ban đêm lẻn ra đánh úp quân Tần, giết được chủ tướng giặc là Đồ Thư, buộc giặc phải rút.
- Dựa vào địa hình quen thuộc và với lực lượng của mình, tổ tiên ta đã tạo nên thế trận có lợi cho cuộc chiến đấu.
- Trong cuộc kháng chiến ở thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt đã tổ chức thành công thế trận phá Tống, như thế trận phối hợp chặt chẽ giữa các cánh quân thuỷ, bộ tiến công sang đất giặc tiêu diệt các căn cứ xuất phát xâm lược của chúng với cuộc phòng thủ vững chắc ở trong nước.
- thế trận phối hợp chặt chẽ giữa cuộc chiến đấu ngăn chặn đại binh giặc tiến xuống kinh đô Thăng Long với các hoạt động quấy rối sau lưng giặc, giữa cuộc chiến đấu đánh bại bộ binh địch ở chiến tuyến sông Cầu với các trận đánh kìm chân thuỷ binh giặc ở Đông Kênh (ven biển Đông Bắc)..
- Ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên ở thế kỷ XIII, nhà Trần đều tổ chức thế trận đánh giặc trên khắp đất nước.
- Thời kỳ chiến tranh chống Minh ở thế kỷ XV, đó là thế trận tiến công hiểm hóc, tiến công liên tục từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn cục của quân khởi nghĩa Lam Sơn với sự giúp sức to lớn của nhân dân cả nước..
- Với lối hành quân chiến đấu thần tốc, nghĩa quân đến đâu cũng thắng rất nhanh, chỉ đánh một trận là diệt gọn, khiến giặc không kịp trở tay đối phó, hoảng loạn bỏ chạy..
- Đặc biệt, tổ tiên ta rất coi trọng dùng mưu kế đánh địch, thường “lánh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở”.
- Vận dụng triết lý dân gian “Đánh rắn phải đánh dập đầu” vào trong chiến đấu, tổ tiên ta xác định phải đánh thật mạnh, đánh thật đau vào những điểm huyệt của giặc, như đánh vào hậu cần quân sự của giặc, cắt đứt đường lương thực từ nước đối phương sang nước ta, hoặc đánh vào tổng hành dinh của địch.
- Thậm chí có lúc do nhiệm vụ chiến lược đòi hỏi và điều kiện cho phép, tổ tiên ta còn biết tập trung binh lực lớn, thực hành cơ động bao vây, vu hồi đánh những trận quyết chiến lược tiêu diệt đạo quân chủ lực của địch, giành thắng lợi quyết định, tiến lên đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù.
- Lối đánh thông minh sáng tạo ấy đã phát huy được sức mạnh của dân tộc,.
- của đất nước, biến lực lượng ta vốn yếu trở nên mạnh, từ ít trở thành nhiều để chiến thắng kẻ thù xâm lược đông và mạnh..
- Từ thực tiễn đó, các nhà quân sự lỗi lạc ở các thời trước đã đúc kết, khái quát thành lý luận, quan điểm, như Trần Quốc Tuấn viết: “Khái quát lại, địch cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp”.
- Đó chính là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật tạo ra sức mạnh đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành và giữ độc lập, chủ quyền của dân tộc ta..
- Tóm lại, triết lý quân sự Việt Nam được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài hàng ngàn năm.
- Trong bối cảnh hiện nay, cần kế thừa và phát huy những tinh hoa trong triết lý quân sự của tổ tiên và nâng lên một tầm cao mới, nhằm mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa..
- 1 Phạm Xuân Nam (Chủ biên), Triết lý phát triển ở Việt Nam – Mấy vấn đề cốt yếu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.31..
- 2 Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Triết lý phát triển C.
- 3 Phan Bội Châu toàn tập, tập 3, NXB Thuận Hoá – Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông – Tây, Huế, 2000, tr.41..
- 4 Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr.83..
- 5 Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1975, tr.187 – 188..
- 6 Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr.362..
- 7 Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lý, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.129..
- 8 Hồng Nam – Hồng Lĩnh (Chủ biên), Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược”, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, tr.377..
- 11 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, NXB Sử học, Hà Nội, 1963, tr.320..
- Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976, tr.71, tr.87, tr.81..
- 13 Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, Bản dịch của Hội liên lạc nghiên cứu văn hoá Á châu, Sài Gòn, 1960, tr.150..
- 17 Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr.281..
- 18 Nguyễn Trãi toàn tập, sđd, tr.322.