« Home « Kết quả tìm kiếm

VẤN ĐỀ NGƯỜI BÁN HÀNG RONG TRÊN CÁC ĐƯỜNG PHỐ HÀ NỘI


Tóm tắt Xem thử

- Bán hàng rong đã trở nên thân thuộc đến mức nó không đơn thuần được nhìn nhận từ góc độ kinh tế, mà còn được xem như một nét văn hoá đặc sắc phản ánh cuộc sống thường nhật của các dân tộc trên thế giới..
- Tuy nhiên, để bảo vệ người bán rong và giữ gìn trật tự đô thị, ngay từ năm 1971, Chính phủ đã có kế hoạch đối phó với tình trạng người bán hàng rong chiếm lĩnh khắp các đường phố.
- để đưa người bán hàng rong vào buôn bán ở những nơi cố định.
- Sau gần 30 năm, đến năm 1996, tất cả người bán hàng rong của Singapore đều đã có nơi buôn bán, được cấp giấy phép, được dự các khoá học về vệ sinh cá nhân, vệ sinh thực phẩm và dinh dưỡng.
- Việc những người bán rong ở Bangkok tuỳ tiện xả rác, làm cản trở giao thông và làm mất vẻ mỹ quan của thành phố góp phần gây nên tình trạng bất ổn trong đời sống đô thị.
- Riêng tại Kuala Lumpur (Malaysia), tình trạng lộn xộn của người bán rong đã khiến Chính phủ ngừng cấp phép cho người bán hàng rong.
- thành kế hoạch quốc gia về người bán hàng rong.
- Theo kế hoạch này, người bán hàng rong sẽ được vào các trung tâm và chợ để họ buôn bán ổn định và được cấp giấy phép 2.
- lại không có người vào kinh doanh, bỏ trống diện tích, dù số hộ buôn bán nhỏ, đặc biệt là những người bán rong trên đường phố vẫn có chiều hướng gia tăng 4 .
- Trong dòng người di chuyển kinh doanh trên phố, những người bán rong từ nông thôn đã góp phần tạo nên một thị trường lao động không chính thức đầy sôi động tại Hà Nội..
- Bán rong một mặt giúp cho việc mua bán hàng hoá của người thành thị trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn, mặt khác, những gánh hàng rong ấy là nguồn mưu sinh của bao người dân quê giúp họ trang trải cuộc sống.
- Tuy nhiên, việc một bộ phận những người nông dân di cư ra thành phố bán hàng rong đặt ra nhiều vấn đề cần suy ngẫm.
- Mục đích của bài báo này là làm sáng tỏ chân dung tâm lý - xã hội của những người bán hàng rong, vấn đề cấm bán hàng rong nhìn từ khía cạnh văn hoá, luật pháp..
- Hiện nay ở Hà Nội có khoảng hàng chục nghìn người bán rong 5 .
- Nghiên cứu của chúng tôi (Trung tâm Nghiên cứu Phụ nữ - ĐHQGHN) trên 300 khách thể là người bán hàng rong tại Hà Nội cho thấy: Độ tuổi trung bình của người bán hàng rong tại Hà Nội là 36,5 tuổi trong đó ở độ tuổi từ 18-39 là nhiều nhất, người bán hàng là nữ chiếm tỷ lệ nhiều hơn nam giới (65,4% so với 34,6.
- Nhìn chung, những người bán hàng rong tại Hà Nội có trình độ học vấn thấp, chủ yếu là từ cấp II trở xuống (chiếm 86,7.
- Ở đó không chỉ có những người học vấn thấp mà hàng ngàn người trẻ, đã tốt nghiệp đại học, vì không tìm được việc làm ở các công ty, công sở đã gia nhập đội ngũ bán hàng rong.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy có 50% người bán rong đi bán đồ ăn và hoa quả.
- Trong khi đó, mặt hàng sách báo/vé số ít được người bán rong lựa chọn vì mỗi sản phẩm chỉ mang lại cho người bán đồng tiền lãi.
- Mặt hàng sành sứ cũng ít được lựa chọn vì số vốn ban đầu khá lớn, có khi đến 3 - 4 triệu đồng, nhưng khả năng thu hồi vốn chậm và rủi ro nhiều như va đập gây sứt mẻ, làm rơi hoặc bị đụng xe vỡ… Tương ứng với các loại sản phẩm mà người bán hàng lựa chọn để bán thì số vốn ban đầu của phần lớn người bán hàng rong là không cao, 70% số người cần vốn dưới 1.000.000 đồng..
- Quê quán của những người làm nghề bán hàng rong ở Hà Nội rất đa dạng.
- Còn những tỉnh như Thanh Hoá, Thái Bình thì số người đi bán hàng rong ở Hà Nội ít hơn.
- Địa điểm bán hàng của những người làm nghề bán rong rất đa dạng.
- 36% số người bán hàng được hỏi cho hay địa điểm bán hàng của họ thường không cố định mà chủ yếu là đi lại trên các tuyến phố.
- 57,3% người lại khẳng định họ thường bán hàng gần chợ, gần trường học/ký túc xá, tại khu dân cư, khu vui chơi.
- Chỉ một số ít người (6,7%) là bán hàng trong chợ tuy nhiên họ cũng chỉ bán một buổi ở chợ, buổi còn lại vẫn là đi rong trên phố..
- Xét về “thâm niên” bán hàng rong ở Hà Nội, chúng tôi nhận thấy nếu như năm 2006, có 2,6% số người bán hàng rong đã đi bán hàng được trên 20 năm, thì tỷ lệ này là 0%.
- Điều này được nhiều người bán hàng lý giải rằng hàng rong chỉ là công việc mang tính chất thời vụ.
- số người bán rong dậy từ rất sớm, 3-5h sáng.
- Công việc bắt đầu của họ là đi lấy hàng tại các chợ đầu mối và chuẩn bị cho một ngày bán hàng mới.
- Trong số khách thể nghiên cứu, chỉ có 2% người bán rong dậy sau 9h sáng, họ thường là những người đi bán hàng ban đêm, ngủ ban ngày.
- Trong các mẫu nghiên cứu ngẫu nhiên của chúng tôi, động cơ chính thúc đẩy người nông thôn ra Hà Nội bán hàng thường là do nghèo khó, không có việc làm.
- Còn lại 50, 60kg cho một người ăn trong 6 tháng không đủ…” (phiếu 89) hay: “Mức thu nhập trung bình của một người ở quê ra Hà Nội bán hàng rong trong 3 tháng có thể so sánh với mức thu nhập cả năm của một hộ gia đình nông dân gồm 5 người cấy 4 sào ruộng!” (phiếu 22)..
- có những người xuất phát từ việc phải nuôi con ăn học trên thành phố nên chấp nhận đi bán hàng rong: “Cũng vì có con học ở trên này thì cô mới đi bán hàng thôi chứ nếu không thì cô cũng chẳng đi, vì ngần này tuổi rồi rong ruổi trên đường, ngày nắng thì không sao chứ mưa gió thì ngại lắm chẳng muốn đi bán nhưng không đi bán thì cũng chẳng có tiền” (phiếu 57).
- Cũng có nhiều người ra Hà Nội bán hàng rong theo thời vụ, bán vào những lúc nông nhàn: “Sau ngày mùa cấy hái, tát nước, làm cỏ.
- Nếu như một số nghiên cứu trước đây cho thấy người bán hàng rong phần lớn đi bán hàng là đi theo bạn bè/người làng, đi theo kiểu phong trào, a dua 7 , thì nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lý do này hiện nay không còn phổ biến (chiếm 5,9.
- Xem xét mức độ hài lòng với công việc của người bán hàng rong, kết quả điều tra cho thấy: Hầu hết tâm trạng vui buồn của người bán rong bị chi phối xung quanh chuyện bán được nhiều hàng hay ít hàng.
- Bởi khi họ so mình với nhiều người khác còn ở quê, những người bán hàng rong luôn thấy mình may mắn, có tương lai hơn người ở lại rồi.
- Ngoài việc có thêm thu nhập, khi so sánh với các nghề lao động phổ thông khác, người bán hàng cũng nhận thấy công việc của mình có lợi thế hơn, không bị gò bó:.
- “Đi bán hàng thế này vất vả nhưng còn hơn là đi bế em, đi giúp việc.
- Những người bán hàng rong do phải sống xa làng quê nên họ thường trọ cùng với người họ hàng, người cùng làng để tiện giúp đỡ nhau.
- Trung bình người bán rong tập trung khoảng 20-30 người một nhà.
- Trong cuộc sống hàng ngày, họ thường trợ giúp nhau: cho nhau vay tiền, bán hàng giúp nhau, trông coi, bảo vệ nhau và nương tựa vào nhau để cùng tồn tại, để cùng được giúp đỡ gia đình ở quê.
- Có thể thấy phần lớn người bán hàng rong có thu nhập ở mức trung bình.
- Nếu mức thu đó là ở nông thôn thì có thể xem là khá và cao nhưng so với cuộc sống ở thành thị, khi người bán hàng phải tự chi trả các khoản ăn uống, nhà trọ, đi lại… thì số tiền họ kiếm được hàng tháng không phải là nhiều.
- Với mục đích ra thành phố bán hàng để kiếm tiền giúp đỡ gia đình thì hầu hết các khoản chi tiêu cho sinh hoạt ở thành phố của họ chỉ ở mức tối thiểu nhất có thể và chỉ được chi cho các nhu cầu thiết yếu nhất..
- Theo nghiên cứu của chúng tôi, phần lớn những người bán hàng rong tiêu tốn khoảng 20.000 đồng/ngày cho việc ăn uống.
- Với giá cả như hiện nay, việc bỏ ra trên hoặc dưới 20.000 đồng cũng chỉ giúp cho người bán hàng có những bữa ăn đạm bạc trong một ngày.
- Một khoản bắt buộc nữa với những người bán hàng rong là tiền thuê nhà trọ..
- Qua thu thập ý kiến của cả người bán hàng và khách mua hàng, chúng tôi nhận thấy người bán hàng nhận định tính cách điển hình của mình là chăm chỉ, chịu khó (28,8.
- Một số khách hàng cho rằng: Những người bán hàng rong là những người ở tỉnh lẻ lên do đó họ cũng thật thà, chất phác, chịu thương, chịu khó và có khi là cam chịu..
- Phần lớn những người bán hàng rong cho rằng việc nhận biết được khách hàng giúp cho họ bán được hàng với giá cao hơn, bán được nhiều hàng hơn và không bị lừa gạt, giật hàng.
- Mục đích bán hàng của họ là cố bán được nhiều hàng với giá có lãi nhất, nên với mỗi loại khách, họ thường có các cách cư xử khác nhau.
- Một số người bán hàng cho rằng phải luôn nghĩ ra các cách để bán được hàng.
- Thái độ nhịn nhục của người bán hàng rong còn bắt nguồn từ việc họ nhận thức rằng mình thấp kém hơn người thành phố, nên phải chấp nhận, phải nín nhịn.
- Như một người bán trứng chia sẻ: “Họ là người Hà Nội, họ có quyền.
- Điều này cho thấy sự nghèo khó về kinh tế, sự thấp kém về học vấn và sự khác biệt về văn hoá, lối sống đã khiến cho những người dân quê ra Hà Nội bán hàng rong dễ dàng nín nhịn khách hàng - dân thành phố..
- Đối với một số người bán hàng rong, việc phải cư xử khéo léo, đon đả với khách hàng, thậm chí cần chút khôn ngoan chính là kim chỉ nam cho việc bán đắt hàng: “Đi bán hàng tất nhiên phải khéo mới bán được hàng rồi, phải chào mời đon đả, phải đảm bảo với người mua về chất lượng hàng của mình, phải nói nếu có hư hỏng gì thì em biếu không, không lấy tiền hay em sẽ đền cho bác hàng khác.
- Cũng có không ít người bán rong cho rằng không cần thiết phải nghĩ ra các cách để bán hàng vì đây là vấn đề lộc, duyên, rủi may, tốt vía…: “Đi bán hàng được hay không là do cái lộc.
- Nếu được lựa chọn khách hàng thì phần lớn người bán rong thích bán cho người trẻ tuổi, sinh viên (46,8.
- Bán hàng cho họ tôi cảm thấy yên tâm không lo bị ăn quỵt, nói chuyện với họ cũng thấy rất vui, biết thêm được nhiều thứ hay về cuộc sống sinh viên” (phiếu 204).
- Cũng có những người thích bán hàng cho ông già vì theo họ, ông già thường “đứng đắn”, “thương người”,.
- Ngoài những lý do cho việc lựa chọn khách hàng nêu trên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng sự “lựa chọn” của người bán hàng về khách hàng còn tuỳ thuộc vào mặt hàng mà họ bán.
- Nhiều chị em cho rằng: Việc bán hàng rong ở Hà Nội đã giúp cho các chị "sáng dạ hơn học được nhiều cái khôn ra, bớt được cái tồ của người nhà quê” (phiếu 30)..
- Tuy nhiên, xét từ khía cạnh luật pháp, đúng như tên gọi của công việc - bán hàng rong, những người làm nghề này luôn phải di chuyển, đi lại liên tục trên các đường phố, nhưng họ lại không hiểu biết về luật giao thông sẽ gây nên cản trở giao thông.
- Như một người bán rong nói: “Đèn đỏ ư? Em có để ý gì đâu, em tưởng nó chỉ cấm người đi xe” (phiếu 27).
- Đôi khi, người bán hàng lại lấn chiếm vỉa hè, tràn cả xuống lòng đường làm ùn tắc giao thông, nhất là vào giờ tan tầm, cuối buổi chiều.
- Theo ý kiến của một người bán chè tại chợ Kim Giang:.
- Còn tác giả Nguyễn Quang Thiều viết: “Có không ít hàng rong đang làm mất đi cái thi vị của chính nó, khi người bán hàng bày bán cua, cá, ốc, hến hay thịt lợn, thịt bò, thịt chó… trên những hè phố và làm mất mỹ quan đô thị”.
- 9 Ngay chính người bán hàng rong cũng cho rằng đi bán hàng mà ăn mặc quần áo không đẹp cũng làm ảnh hưởng đến diện mạo Hà Nội, làm “xấu mặt Thủ đô”: “Chúng tôi đi bán hàng mà ăn mặc nhếch nhác, người ta nhìn vào trông không đẹp mắt” (phiếu 79)..
- Tuy nhiên, vẫn còn không ít người bán rong cho rằng việc bán hàng của mình không làm cản trở giao thông, không làm bừa bộn phố xá, vì: “Chúng tôi ngồi gọn trong vỉa hè”.
- Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, có 31,3% những người bán rong không đăng ký tạm trú.
- Điều này cho thấy tính chất bất hợp pháp trong việc tạm trú của người bán rong tại Hà Nội..
- Nhìn nhận việc bán hàng rong ở khía cạnh pháp lý, chúng ta không thể không bàn đến cách ứng phó của người bán hàng đối với lệnh cấm bán rong.
- Lệnh cấm bán hàng rong được ban ra, đồng nghĩa với việc người bán hàng phải tìm những địa điểm bán mới, và không được bán ở những tuyến phố chính.
- Tuy nhiên, không phải người bán rong nào cũng thực hiện theo luật định.
- Chúng ta vẫn dễ dàng thấy sự xuất hiện của những gánh hàng rong như một chị bán rong nói: "Người ta đuổi là việc của người ta, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn mình vẫn phải len lỏi để bán hàng thôi” (phiếu 74)..
- Hiện tượng khi công an đến, người bán rong chạy hớt hải tìm chỗ trốn, công an đi khỏi lại ùa ra đường bán hàng phản ánh một thực tế là chúng ta đang bất lực với việc giải toả bán.
- Từ suy nghĩ “tự nhiên” đó, những người bán rong nghĩ ra các cách đối phó với công an rất đa dạng.
- Một số người bán rong đã chuyển sang mua rong phế liệu.
- Còn những người trước đây với đôi quang gánh quẩy gánh hàng ăn thì giờ một tay bê thúng bún, một tay xách chiếc làn to cùng 5-6 túi nilon đựng nước mắm, rau sống, mắm tôm… và vẫn tiếp tục hành nghề… bán hàng rong 11 .
- Trước thông tin cấm hàng rong, đó đây đã có hiện tượng thay cho gánh, đội hàng đi bán rong, người dân cầm hai cái làn như đi chợ, nhưng thực ra vẫn là bán hàng rong..
- Lang thang bán hàng trên các đường phố Hà Nội của người nông thôn là một công việc còn gây nhiều điều bất cập.
- Hầu hết người nông thôn ra Hà Nội kiếm sống đều biết rằng họ chỉ ngừng bán rong trên phố khi họ có được một chỗ bán hàng ổn định, hay khi ở quê họ có việc làm đảm bảo cuộc sống cho gia đình họ.
- Vấn đề đặt ra là trong hoàn cảnh hiện nay, khi ở Hà Nội có đến hàng chục nghìn gánh hàng rong thì lệnh cấm bán hàng rong có thoả đáng và khi hiệu lệnh này được ban ra, có bao nhiêu người không biết trông vào đâu? Làm nghề gì để tồn tại? Và nếu giữ lại hàng rong thì nên giữ những loại hàng nào, nên ban hành những quy định nào cho người bán hàng?.
- Có lẽ còn nhiều việc cần phải bàn xung quanh vấn đề bán hàng rong tại Hà Nội..
- Ở Malaysia, Chính phủ đã hình thành kế hoạch về người bán hàng rong từ năm 1990.
- Theo đó, thành phố Kula Lumpur đưa người bán rong vào các trung tâm và chợ để họ buôn bán ổn định và được cấp giấy phép;.
- người bán hàng rong được vay vốn để nâng cấp phương tiện bán hàng và tổ chức huấn luyện để cung cấp kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Còn tại thành phố Calcutta của Ấn Độ, chương trình nâng cao chất lượng và sự an toàn thức ăn bán hàng rong của Viện Vệ sinh và Y tế công cộng đã giúp thành phố quản lý toàn bộ và nâng cấp hàng rong nhờ vào những biện pháp sau: Người bán hàng rong được hội những người bán hàng rong cấp một thẻ chứng nhận có dán ảnh.
- người bán hàng rong được phép bán trên các lề đường do cảnh sát quy định.
- chính quyền cung cấp nước sạch, bố trí phương tiện xử lý rác và nước thải cho người bán hàng rong.
- người bán hàng rong được vay tiền của ngân hàng để mua xe bán hàng, người vay được trả góp nhiều năm.
- tổ chức các khoá huấn luyện cho người bán hàng rong.
- hình thành cơ chế hợp tác giữa nhiều thành phần gồm người bán hàng rong, đại diện của họ với người tiêu dùng, cảnh sát và cơ quan phụ trách về y tế và vệ sinh công cộng.
- Theo tác giả Nguyễn Quang Thiều, lệnh cấm bán hàng rong là một quyết định vội vã và “lười nhác”.
- Từ góc độ xã hội, hàng rong gắn với đời sống của những người có mức sống trung bình và thấp, kể cả người bán và người mua.
- 1 Nguyễn Quang Thiều, Cấm bán hàng rong - phép trừ không đơn giản, Vietbao.vn, 2008.
- 8 Nguyễn Quang Thiều, Cấm bán hàng rong – phép trừ không đơn giản, tlđd..
- 9 Nguyễn Quang Thiều, Cấm bán hàng rong – phép trừ không đơn giản, tlđd.